Năng lượng siêu thực trong bóng của con nhân sư

08:34 04/07/2011
HOÀNG THỤY ANH Phan Ngọc đã từng nói: Thơ vốn dĩ có cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải xúc cảm và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này.

Ảnh: vanvn.net

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Trần Hoàng Phố cũng tổ chức ngôn từ một cách tinh tế như thế. Nhưng ông biết chọn lọc và định hướng con đường thơ ca của mình bằng năng lượng siêu thực. Điều ấy được thể hiện rất rõ qua “Bóng của con nhân sư”(1).

Chạm vào tận cùng của bản chất sự vật, thế mạnh thơ siêu thực sẽ phát khởi mọi khả năng của trí tuệ và mới lạ của câu chữ. Những câu thơ siêu thực trong “Bóng của con nhân sư” xáo trộn, chia cắt hệ thống đau thương bằng cảm quan phi lý. Cái tôi bị cắt xé bằng sự suy ngẫm. Nó là kết quả nghiệm chứng của dòng chảy tư tưởng. Chính vì thế, Trần Hoàng Phố phá bức tường cổ điển của những tập thơ trước(2), hệ thống, cân bằng chúng bằng dạng thức tự do: lắp ghép từ, câu ngắn dài đan cài, câu thơ thiết kế tầng bậc... Năng lượng cảm xúc thơ từ đó rộng mở đa chiều. Cảm xúc thăng hoa cái vô tận của bản ngã.

Bóng và hành trình tìm bản ngã

Âm hưởng của những tập thơ trước về kí ức xưa tuôn trào mạnh mẽ hơn ở tập “Bóng của con nhân sư”. Hình ảnh “bóng” ám ảnh, trở đi trở lại trong hầu hết các bài thơ: Hình như là bóng của nỗi bình an; Chén mộng du này đầy bóng hình xa xôi; Bóng của một cái bóng; Và cái bóng lắc lư buồn rầu khốn khổ trong anh; Bóng trần gian não nùng in rợn giữa sao khuya; Bồng bềnh đêm chếnh choáng bóng mồ côi; Phế tích buồn trong bóng chiều huyền thoại/ Bóng vương tôn vua chúa đi về/ Những chiếc bóng nổi trôi ở chân trời phù du huyền ảo/ Một nụ cười buồn của Vô thường (Phế tích buồn)... Cảm xúc hướng nội, nên các con chữ trong thơ Trần Hoàng Phố rượt đuổi đến tận cùng của hồi ức, của kỷ niệm. Chúng nhào nặn, quấn riết cái tôi đa cảm và mở ra những tầng ngầm day dứt. Những cuộc trở về ấy rối loạn tâm thức và câu chữ, bởi nó là hệ quả của sự thức dậy linh hồn:

Biển linh hồn anh gào rú giấc mơ xưa xa lắc thuở dịu dàng hương
Chén sa mạc đêm này bỗng chầm chậm thơm đường cong môi em

                                                            (Chén đêm)

Kí ức được tái hiện bằng những âm thanh, những gương mặt, những cảm giác từ cái tôi thăm thẳm cô đơn. Cái tôi được đặt trong nhiều mối tương quan với các sự kiện khác, tìm đến đa bản ngã từ chính cái bóng của chính mình. Cô đơn tận đáy đời:

Thành phố - giọt mưa buồn rơi trong mắt em
Anh không còn nhìn thấy những vì sao lung linh trong đáy cốc đời mình
Dòng sông lững lờ trôi không gặp bể giữa sương mù ngày tháng
Những hàng cây xanh non mưa quất than van trong tim anh
Giọt nước mắt em rơi trên môi anh
Mưa đông rơi trên những con đường mưa rơi trên những mái nhà thành phố
Anh nếm thấy trắng xóa đại dương của cô đơn
                                                (Thành phố, mưa và tôi)

Nhà thơ sống với quá khứ, trăn trở với quá khứ, mong tìm được cái bóng bình an của thời gian để lắng nghe “tiếng chim câu gù mơ hồ dưới bóng những sớm mai”, để giữ lấy khoảnh khắc “Chén sa mạc đêm này bỗng chầm chậm thơm đường cong môi em”. Nhưng hoài vọng ấy đôi khi lặn vào sâu vào tầng nham thạch của cõi lòng như vết tích ngoài tầm kiểm soát. Vì thế, Trần Hoàng Phố chối bỏ hiện tại, quăng quật mình ở chốn phiêu du, hư ảo là để trốn chạy cái nghịch lý đang ăn mòn mọi thứ trong hiện tại. Cái tôi ấy cô quạnh, trống rỗng trong thế giới trớ trêu thật giả. Và nhà thơ tìm bóng mình ở em. Em là một phần của cái bóng trong chuyến tìm bản ngã của nhà thơ. Tìm em để hiểu mình. Nhưng hình ảnh em cũng nhạt nhòa sương khói:

Thành phố - nụ cười em lạ lùng/ Mắt em nắng mưa nào hư thực/ Anh nhìn không thấy màu mắt của hoàng hôn/ Bàn tay dịu mềm của ai hững hờ xa lạ/ Anh không hiểu những chiếc lá đang màu xuân hay đông (Thành phố, mưa và tôi)

Mỗi cái bóng mở ra tâm hồn băn khoăn, trăn trở, suy tư của nhà thơ. Nhưng cuộc truy tìm nào rồi cũng sẽ đến một giới hạn. Với Trần Hoàng Phố, dường như chưa có đích cuối cùng. Bởi, tìm chính mình ở “kí ức xa lắc” thì chưa đủ dù ông từng tuyên bo “ăn ở với chính bóng mình”. Ông tìm ngay trong cõi thiền. Chạm vào cõi thiền, ông chạm đến bản ngã chính mình bằng hành trình vượt lằn ranh của hiện thực. Con đường giác ngộ dịch chuyển tâm thế của nhà thơ, soi chiếu vào bản thể, định hướng cái bóng của nhà thơ.

Cuộc sống bày ra biết bao nhiêu cạm bẫy. Chỉ cần nhích một tí, sự chuyển đổi đã được đo đếm. Nếu không giữ được bản lĩnh khó có thể đoạn tuyệt với những hẹp hòi, rỗng rễnh, vô nghĩa... đang bủa vây. Để dựng xây hệ giá trị cho riêng mình, vượt ra khỏi giới hạn của cái tôi, nhà thơ nhập thế, thấu suốt bằng tâm thiền:

Và con mắt Thiền
Nhìn vào cõi Vô minh
                        bóng tối
                                    lòng mình
                                                (Trở về)

Như vậy, Trần Hoàng Phố mượn bóng, mượn hành trình ngược dòng để tìm chính mình. Trên Hành trình hướng thiền, ông đã tìm được bản ngã của mình, cởi bỏ những vướng bận, bừng ngộ đạo tâm.

Ám ảnh thời gian

Thời gian nghệ thuật trong thơ thường đa chiều. Nó có thể vận hành, tiến, thoái, ngưng đọng… tùy vào chủ quan của thi nhân. Do đó, thời gian thơ luôn chứa đựng chiều sâu triết lý, hàm chứa biểu tượng. Đọc “Bóng của con nhân sư”, bên cạnh tiếng vọng của linh hồn, chúng ta còn bắt gặp nỗi ám ảnh thời gian. Trần Hoàng Phố không quay quắt níu giữ thời gian mà tan chảy vào dòng trôi ấy để cảm nhận gương mặt thời gian. Ông lắng nghe được bước đi của thời gian ngay trong chốn hư vô. Thời gian còn hiện hữu hóa bằng nhiều chiều kích của không gian:

Bông hoa lặng câm cắm trong chiếc bình thời gian/ Đã vô hồn/ Như sắc đẹp ảm đạm ngày tàn (Muộn sầu ngày tàn)

Hồn xưa, bóng xưa như nhân thêm nỗi buồn trong cuộc săn đuổi khôn cùng của thời gian:

Những đám mây thời gian đuổi bắt vô tận/ Nỗi buồn ngàn năm/ Rơi xuống/ Đọng thành/ Giọt lệ/ Trăng (Giọt lệ trăng)

Thời gian làm cho cuộc hành trình tìm bản ngã thêm diệu vợi. Nó xuyên thấm, len lỏi ngay trong cái bóng của nhà thơ. Nó trở thành biểu tượng bất diệt của bản thể. Nhưng con đường tìm bóng mình trải qua vô tận của thời gian, chông gai của cuộc đời đâu dễ dàng đến được bến Chân Như? Trần Hoàng Phố đã làm được. Thơ ông hiển lộ tính minh triết, hóa đạo trong tinh thần nhập thế:

Ta trở lại thương từng ngọn cỏ/ Từng bơ vơ trong bão táp cuộc đời/ Cõi nào đây ta từng dừng mỏi bước chân trần/ Có ai đến hôn vào mỗi dấu vết chia xa/ Để nỗi nhớ thấm vào đất đai sinh nở/ Để hóa thân cho lộng lẫy bụi trần/ (Gió xuân thì).

Tập “Bóng của con nhân sư” không chỉ hay vì hành trình tìm bóng của nhà thơ mà còn hay vì những đứt khúc, chắp nối của ngôn từ. Ngôn từ của nhà thơ quẫy đạp trong thế giới của nhịp siêu thực. Ông sử dụng nhiều phép so sánh. Phép so sánh mở ra nhiều liên tưởng thú vị, làm mới thơ và thay đổi những định vị quen thuộc của người đọc, lôi kéo người đọc cùng tác giả phát huy các tầng nghĩa của thơ. Những câu so sánh lạ khá nhiều trong tập thơ.

So sánh bằng từ so sánh “như”, cái biểu đạt gia tăng thêm điểm nhìn mới cho cái được biểu đạt. “Chiều” được so sánh như chiều sâu của đôi mắt người chết, nhà thơ đã cảm nhận được tận cùng của nó. “Chiều” đâu chỉ là thời gian thuần túy mà nó còn là ám ảnh thân phận:

- Chiều cô đơn
                        thăm thẳm
                                    như mắt người chết
                                                (Tận cùng chiều)

Nhà thơ còn định dạng, hoán vị, giao thoa giữa cái vô hình và hữu hình để đạt đến cái khả thể:

Trong đêm khuya lá rụng/ Như một nét nhạc buồn/ Chậm rãi cứa tim
                                                                        (Gió xuân thì)

Trong tập thơ này, vì quá mải miết tìm cái bóng của chính mình nên nhiều hình ảnh thơ lặp đi lặp lại, thiếu sự bão hòa. Tuy nhiên, người đọc không thể dứt ra khỏi trường trạng thức của nhà thơ. Những giấc mộng đầy ám ảnh, chập chờn, ma quái. Guồng máy ấy chuyển động đến cội nguồn tâm linh, vượt khỏi phiền não cõi nhân gian, bất tận hồn thiền bằng những va đập giữa chất truyền thống và chất hiện đại; giữa có và không; giữa sinh và tử... Tìm bóng chính mình, bóng thời gian là hành trình bất tận khôn nguôi về ám ảnh bản thể và ý nghĩa đời người.

Đồng Hới, ngày 15-2-2011
H.T.A
(268/06-11)



------------
(1) Trần Hoàng Phố,
Bóng của con nhân sư, NXB Thuận Hóa, 2010.
(2)
Cõi nhân gian lạ lẫm, NXB Thuận Hóa, 2002 và Quê quán tôi xưa, NXB Thuận Hóa, 2002.








Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)

  • LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.

  • THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.

  • HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...

  • BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.

  • HỒ THẾ HÀ   Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.

  • TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.

  • TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.

  • HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)

  • LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)

  • VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)

  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

  • BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

  • PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)

  • HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.