Muốn có bản sắc trước hết phải hay

10:35 21/05/2010
NGUYỄN KHẮC THẠCHVấn đề bản sắc địa phương trên tạp chí văn nghệ tỉnh nhà chúng ta đã có dịp bàn bạc, trao đổi nhưng chưa ngã ngũ. Có lẽ trong trường lực báo chí, tờ văn nghệ vẫn là chỗ nhạy cảm nhất về phương diện văn hóa. Hẳn nhiên, trong địa hạt ấy, tờ văn nghệ cũng là nơi khả kiến nhất về phương diện nghệ thuật. Câu hỏi đặt ra ở đây là bản sắc địa phương của tờ báo được xét theo phương diện nào? văn hóa hay nghệ thuật?

Nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch - Ảnh tư liệu

Thực tế về mặt lý luận, trong bộ môn văn học so sánh, kể cả những ý kiến cực đoan nhất, cục bộ nhất, người ta cũng chỉ đề cập vấn đề ở qui mô dân tộc hoặc cấp độ quốc gia chứ chưa ai nói đến một nền văn hóa địa phương. Tôi cũng đã từng được dự hai cuộc hội thảo về những vấn đề văn học miền Trung, một của Hội Nhà văn, một của trường Đại học khoa học Huế nhưng cuối cùng vẫn thấy tù mù về cái gọi là văn học vùng hoặc văn học miền ấy. Theo tôi, mỗi quốc gia chỉ có một nền văn học và mỗi địa phương là một bộ phận của nền văn học ấy chứ không thể có những nền văn học "nội tỉnh". Chỗ khác nhau là mỗi vùng, mỗi địa phương, tùy "nết đất" của nó mà sinh ra nhiều hay ít những nhà văn. Nhà văn và những sáng tạo của họ đều không có biên giới. Chẳng lẽ những ý tưởng nghệ thuật, những tư duy tưởng tượng cũng phải đóng khung trong một phạm vi nào đó như những qui tắc quản lý hành chính.Càng không thể khu biệt rành rọt tài năng địa phương, tài năng quốc gia, tài năng quốc tế trong lĩnh vực văn chương. Nếu xét về yếu tố ngôn ngữ thì cũng không thể lấy tiếng địa phương dùng trong văn bản để làm thước đo bản sắc. Văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ. Khi ngôn ngữ đã thành nghệ thuật thì cũng có nghĩa là nó đã được "xã hội hóa" về mặt thẫm mỹ. Ở đấy, nó đã lớn hơn xác chữ, lớn hơn chính nó và lớn hơn cả cái "địa phương tính" vốn có của nó.

Mỗi người viết khi đã thành tác giả thì nói chung, họ đều có giọng điệu hoặc phong cách riêng. Đấy là những giá trị cá nhân tồn tại biệt lập không thể đem cộng chùng lại thành "bản sắc" của cộng đồng. Dù in ở báo này hoặc mang sang báo kia, các giá trị ấy vẫn vẹn nguyên những đặc tính ban đầu của nó. Vậy nên các tạp chí địa phương không thể coi sự hiện diện các giá trị nghệ thuật riêng lẻ ấy trên bản báo là của riêng mình.

Về phương diện văn hóa, trên mỗi tờ báo, nó cũng có cái "ảo" và cái "thực". Ảo là cái trừu tượng, vô hình, cái làm nên "chất" của tờ báo. Thực là cái cụ thể, hữu hình, cái làm nên "tượng" của tờ báo. Đề tài văn hóa, lịch sử ở mỗi địa phương được khai thác như thế nào thì nó sẽ ảnh hưởng đến lượng của tờ báo như thế ấy. Lượng của báo chính là thông tin. Cách xử lý, ứng dụng những thông tin ấy mới là chết của báo. Chết lượng hoặc ảo thực về phương diện văn hóa đều có thẻ làm nên bản sắc cho mỗi tờ báo địa phương. Song, nếu quá lạm dụng đề tài văn hóa cho có bản sắc thì tờ tạp chí văn nghệ sẽ đi lệch tiêu chí của nó. Bất cứ tờ báo văn nghệ nào cũng phải lấy việc sáng tác làm rường cột. Phần nghiên cứu văn hóa chỉ có ý nghĩa "gia vị" trên "mâm cỗ" văn nghệ. Tính địa phương trên mỗi tờ báo trước hết là sự thể hiện một cách trung thành tôn chỉ mục đích của nó. Theo đó, tác giả và tác phẩm địa phương sẽ phải vừa là phương tiện vừa là mục đích của mỗi tờ báo. Nếu tờ văn nghệ địa phương mà không đăng tải tác phẩm của tác giả tại chỗ, không phản ảnh được diện mạo văn học tỉnh nhà thì nó không có lý do gì để tồn tại. Hơn thế nữa, bằng những lợi thế của mình, nó cũng có thể phát hiện; nâng đỡ và đào tạo những cây bút trẻ một cách thường xuyên, liên tục theo dòng chảy của đời sống văn học. Chỗ khác nhau mang màu sắc riêng ở mỗi vùng chính là nội lực của những chủ thể sáng tạo và hiệu ứng tham gia của nó đối với tờ báo. Tuy nhiên, nếu quá chú trọng tính địa phương đến mức cục bộ thì nó sẽ ra tờ báo tỉnh lẽ, vì trên thực tế, chưa có tỉnh nào đủ sức để làm một tạp chí văn học có tầm cỡ quốc gia mà chỉ dựa vào đội ngũ "cây nhà lá vườn". Đấy là chưa kể đến việc cần thiết mở rộng giao lưu, hòa nhập với thế giới bên ngoài theo nhu cầu "hướng ngoại" và qui luật phát triển của đời sống. Song, tỷ lệ dùng bài từ nơi khác trên các báo địa phương là bao nhiêu cho hợp lý thì vẫn còn là sự tùy tiện. Nhiều khi, không phải do ý muốn hoặc ý chí của tòa soạn mà nó còn phụ thuộc vào lượng bài vở tại chỗ. Tạp chí Sông Hương trước đây có thể tự lực được 50 đến 60% nhưng đến nay, do đội ngũ viết ngày một mỏng nên chỉ đáp ứng được 20 - 30%. Tất nhiên, cũng không phải bất cứ cái gì tác giả địa phương viết ra đều đăng được. Tờ báo tồn tại nhờ người viết nhưng sống lại phải nhờ người đọc. Vậy thì chọn bài in là chọn cho người đọc chứ không phải chọn cho người viết. Người đọc bao giờ cũng khách quan và khắt khe đòi hỏi nâng cao chất lượng tờ báo. Nhìn vào làng văn các tỉnh, ít nhất cũng thấy được hai hạng tác giả là viết hay và viết không hay. Hạng viết hay thì tác phẩm của họ gửi đi đâu cũng in được. Hạng còn lại, họ chỉ có một cửa duy nhất là "chơi trên sân nhà". Đấy là chỗ nan giải, dồn tờ báo vào thế "bỏ thì thương, vương thì tội". Chuyện thường ngày ở mỗi tòa soạn là đều phải chịu một áp lực "nể nang" và chấp nhận một liều lượng nào đó những trang viết có giá trị nghệ thuật thấp thua trình độ thẩm mỹ của công chúng. Mặc dù trong nghề làm báo, người ta đều thâý rằng, trong mỗi số, bài nào cũng hay cả là không nên nhưng khi bài không hay quá rậm rạp thì tờ báo sẽ dở, sẽ thành tờ lá cải. Nó sẽ không hề có và không hề mang một bản sắc nào hết.

Suy cho cùng, bản sắc một tờ báo cũng giống như cá tính của mỗi con người. Một con người không có cá tính chẳng khác gì một tờ báo không có bản sắc. Song, cá tính một con người có thể có cả cái hay lẫn cái dở còn bản sắc của một tờ báo thì nó chỉ hàm nghĩa cái hay mà thôi.

N.K.T
(140/10-00)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

  • LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

  • HOÀNG NGỌC HIẾN             (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).

  • VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.

  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)

  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.