Mùa xuân 72 ở Paris

14:51 22/03/2010
ĐẶNG THỊ HẠNHMùa rét năm ấy ở Paris đã không có tuyết. "Một điều rất đặc biệt", ông Xuân Thủy nói với tôi như vậy khi tôi đi dạo với ông trong khu vườn bao quanh một cơ quan của Đảng Cộng sản Pháp dành riêng cho phái đoàn thương lượng của ta ở Paris .

Ảnh: Internet

Các khu vườn mùa đông sang xuân ở Paris bao giờ cũng đẹp và tuy vào tháng giêng tôi không phải khoác áo ấm mà chỉ mặc một cái áo dài lụa tơ tằm. Việc ký kết Hiệp định Hòa bình đang dậm chân tại chỗ nhưng tôi không thấy dấu hiệu sốt ruột nào trên gương mặt trưởng đoàn và vừa đi dạo, ông vừa nói với tôi về cái đẹp của lụa tơ tầm Việt Nam. Tôi cảm thấy nhà chính trị điềm đạm này không giống các nhà chính trị khác. Sau đó, trong buổi gặp mặt ngày Tết của Sứ quán Việt Nam và Việt kiều, tôi được nghe ngâm thơ ông. Hàng chục năm sau này nữa, trước khi ông mất ít lâu, ông còn làm một bài thơ đăng trên một tờ báo hàng ngày thời ấy, chắc nhiều người trong chúng ta đã được đọc, một bài thơ rất đặc biệt, Em suyễn (Khạc chẳng ra, nuốt chẳng vào...). Ta biết nhà thơ có quyền gọi mọi thứ là em, chứ không riêng gì người yêu, có thể từ cái trữ tình nhất: Mùa thu Hà Nội, đến cái ít lãng mạn nhất, con cá chẳng hạn: Đuôi em quẫy mạnh trăng vàng chóe... nhưng từ đấy để nói về một cái bệnh đã hành hạ ta gần như suốt cả đời, như một cái gì vừa thân thương vừa đáng sợ, thì quả không phải là một ý nghĩ tầm thường. Như mọi ngôn từ nghệ thuật, Em suyễn ở đây, có nghĩa kép, "Anh Xuân Thủy vốn thâm nho", ngay lúc đó ông Nguyễn Minh Vỹ đã nói với tôi như vậy.

Tôi đến Paris vào cuối 71, đầu 72 không vì một nhiệm vụ gì trọng đại. Tôi chỉ là một cô giáo bình thường ở một trường đại học. Sở dĩ tôi được gọi đi vào một phái đoàn tham gia Hội nghị Hòa bình ở Paris, đó là vì Hội Liên hiệp Phụ nữ cần thêm một cô giáo ở một trường nào đó, và sở dĩ cô giáo đó lại là tôi chính vì người phụ trách đối ngoại của Hội, là học sinh cậu tôi và biết rằng tôi nói đưọc tiếng Pháp.

Từ một Việt Nam giữa chiến tranh chống Mỹ - nếu có rời cái làng miền núi hoang vắng của Đại Từ, cũng là để phóng xe đạp như bay về một làng đồng bằng xanh tươi hơn chút ít, nơi sơ tán của các con tôi - sau một lịch trình đi qua những đất nước gợi nhớ Nghìn lẻ một đêm, tôi rơi tõm ngay vào một ôten loại xoàng (sau này tôi biết vậy, còn lúc ấy tôi vẫn thấy sang), gần một mêtrô vào loại đông nhất của Paris, ga Saint - Lazarre. Ngay từ hôm đầu, vén riđô nhìn qua cửa kính, tôi đã nhìn thấy vào giờ cao điểm, đám đông sặc sỡ tuôn ra như nước từ mêtrô. Tất nhiên cũng đã có một đoạn trung chuyển nhưng Matxcơva vào mùa đông thật vắng, và ngồi trên khách sạn Rơxia từ trên tầng cao nhìn xuống, tôi chỉ nhìn thấy băng trôi trên sông, còn các khu vườn mùa đông ở đấy cũng thật đẹp, nhưng vắng vẻ im lìm.

Ngược lại đường phố Paris sôi động như một cái tổ ong. Hội nghị chúng tôi họp ở một phòng của Cung điện Vecxay với thiện chí thúc đẩy việc kí kết hiệp định, và như thường lệ tôi chẳng để ý đến bối cảnh của một nơi nổi tiếng đến thế. Tôi chỉ để ý đến ba nhân vật: ông Săngđrar, Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới, người Ấn Độ, nhưng phong cách và sự hùng biện giống hệt người Pháp; Jane Fonda, mà mọi người giới thiệu với tôi trên bậc thềm phòng họp - tiếng Anh của tôi rất tồi - người cao và mảnh, tóc mầu sáng cắt rất ngắn, nhìn gần không chút trang điểm, da lại có tàn nhang, hình như chị không đẹp như tôi tưởng, nhưng đôi mắt rộng mầu xám và gương mặt mỏng và sắc của chị lúc ấy có vẻ đẹp riêng mà sau này khi trở thành super-star, chị chẳng còn giữ được; cuối cùng là Joan Baez, to như một con voi mà tôi nhìn thấy trên sàn diễn, nhưng lúc chị vừa gẩy đàn ghi ta vừa hát một bài chống chiến tranh, tôi lại bị chấn động lạ lùng vì vẻ rạng rỡ trên gương mặt chị, và tôi hiểu sự sáng tạo chân chính có thể đem lại một hạnh phúc lớn đến nhường nào, chị hẳn phải sung sướng biết bao khi được hát bài chị ưa thích cho những người nghe cũng sung sướng như chị: A thing of beauty is a joy for ever (*), quả là Keats đã nói rất đúng về sáng tạo nghệ thuật. Vào giờ ăn trưa, mỗi người lấy một cái khay và tự chọn thức ăn xếp vào mang về bàn, kể cả các "thượng khách", không hề có mâm riêng, bây giờ điều này cũng không có gì lạ, khi ta dự nhiều buổi buyphê như hiện nay, nhưng lúc đó đối với tôi, ít nhất, cũng là lạ. Còn một chuyện buồn cười nữa. Trong nhiều cuộc tiếp xúc với các giới trong hội nghị, có một cuộc tiếp xúc của phái đoàn Việt Nam, với một nhóm tư sản Anh dự hội nghị. Trưởng phái đoàn Hòa bình của chúng tôi lúc ấy, theo quán tính, khi phát biểu luôn mồm gọi họ là các đồng chí:"tôi phải" "xúp" hết, "xúp" hết các chữ ấy khi dịch", câụ phiên dịch trẻ trung, nhanh nhẹn và khôn ngoan của chúng tôi, nói với tôi như vậy.

Sang Paris lần đó, chúng tôi phải đi tiếp xúc nhiều mà thời gian ngắn nên chẳng có dịp xem cái gì, trừ Louvre là cái không thể bỏ qua.Chúng tôi chụp một bức ảnh dưới chân tượng Venus de Milo, và tôi vẫn kịp nhận ra "đôi mắt và khóe miệng mang nhiều nét u hoài" trên gương mặt nổi tiếng, xung quanh đó đã có biết bao lời bình. Trong một bữa ăn thân mật ở nhà một đảng viên cọng sản trẻ - hai vợ chồng họ vừa lập nghiệp mà đã sống khá sung túc, boom kinh tế Pháp những năm 60 vẫn chưa qua hẳn - vừa cắt thịt cừu quay bằng cái cưa máy mới mua, anh bạn người Pháp vừa hỏi chúng tôi về trận Đường 9 - Nam Lào diễn ra đầu năm 71: anh lấy làm lạ tại sao ta lại đoán biết quân ngụy sẽ vượt qua biên giới Việt Lào và phục sẵn để đánh thắng. Trong những người lính của gia đình tôi (gia đình lớn) có một người đã tham gia trận đánh, dùng theo từ ngữ của những chuyện trò vui vẻ sau khi anh trở về, thì anh đã "ngồi thu lu" ở Bản Đông để chặn đường rút của địch. Và mặc dù rất mù mờ về quân sự, tôi bạo dạn trình bày một vài ý kiến tôi đã nghe được qua các câu chuyện gia đình. Đó có lẽ là đóng góp "lớn" nhất của tôi trong kì đi công tác đó của nhóm ba người, chị Thể, anh Lâm và tôi: sau khi Hội nghị Hòa bình Vecxay kết thúc, phái đoàn Việt Nam phần lớn về nước, còn lại một đoàn ba người của Hội Liên hiệp Phụ nữ đi công tác qua Bỉ, Áo và Ý. Vì đợt công tác vượt quá giới hạn bài viết - Mùa xuân 72 ở Paris - tôi sẽ không nói tới người và cảnh của những nơi tôi đã đi qua. Tuy nhiên tôi vẫn không thể quên được tháp Atomium của Bruxelles; Vienne, thủ đô của nghệ thuật barnoque, tại nơi đó sông Danube chẳng xanh tí nào mà chảy lờ đờ một mầu hung đỏ dưới cầu: Mimi, người bạn gái Áo chỉ cho tôi xem ngôi nhà Beethoven ở trước khi ông mất ("Xóm giềng giữ về ông hình ảnh một ông già hay cáu kỉnh, vì lẽ gì ta cũng biết đấy", Mimi nói với tôi như vậy). Còn về nước Ý thì có quá nhiều ấn tượng và kỉ niệm, kể từ đài Colisée với những con mèo béo núc trên những bậc đá hoang vu, tới cành hoa đào mong manh đặt trong giấy bóng kính trên bàn thị trưởng Milan, bức Cène chạy dài trên suốt cả một bức tường... Hiện nay kỉ vật còn lại từ tất cả các chuyến đi đó, Rome, Milan, Florence, Mentova, Novo Ligure... là những bức ảnh kỉ niệm và một bản sao cỡ nhỏ của tranh Nàng Joconde tôi đã mua ở Milan. Cũng là phải lẽ khi cuối cùng kí ức về Italia lại qui tụ lại trong tôi ở một gương mặt phụ nữ thanh tao, vừa như trong suốt lại rất bí ẩn, qua đó tôi tìm thấy lại được gương mặt của những người phụ nữ tôi đã gặp mùa xuân năm ấy, trong một cuộc du hành chớp nhoáng, họ đều là những người đấu tranh cho hòa bình.

Tôi trở về Hà Nội vào đầu tháng ba. Nhìn từ máy bay xuống cây cỏ xanh mơn mởn và tôi chưa đoán được năm 72 sẽ mang lại gì cho tất cả chúng tôi.Xuống đến sân bay, tôi chỉ nhìn thấy thằng con út đứng to cồ cộ, cạnh mẹ tôi nhỏ bé, mặc cái áo cánh lụa nâu mà lúc nào tôi cũng phảng phất thấy có mùi thơm quết trầu. Hai người lính của gia đình tôi lại đã ra đi cho một chiến dịch mới, dài nhất từ trước đến nay: "Người một lứa, chó hai lứa, gà bốn lứa", đó là thời gian của chiến dịch được đo theo ngôn ngữ nông dân, và lời phát biểu đó là của một ông tướng nông dân.

Về đến nhà, ba dứa trẻ của tôi, 13, 14, 16 tuổi đã tự quản lý lấy từ mấy tháng nay. Đàn gà đã bị dịch từ trước Tết. Anh chị lớn đi học buổi sáng, thằng út học buổi chiều, mỗi sáng khi cho gà ăn, nó bắt những con gà bắt đầu biếng ăn, làm thịt và kho gừng. Tay nghề của nó như vậy là rất khá, nhưng gà chỉ mới chớm toi bao giờ cũng có một cái vị riêng mà đến hàng năm sau đến gà khỏe kho gừng con gái tôi cũng không sao ăn được.

Suốt năm đó là những đợt sơ tán vất vả từ nơi nọ sang nơi kia theo với các bước leo thang của Mỹ, cho đến đỉnh điểm là cuộc chiến trên không 12 ngày đêm của Hà Nội. Dù sao, đúng 12 giờ đêm 29 tháng 12 năm đó, tôi cũng tỉnh dậy chờ nghe tiếng bom B52 trút ầm ầm xuống đầu. Nhưng không, đêm hoàn toàn yên tĩnh, và sau đó trong không trung trong suốt tôi chỉ nghe thấy tiếng chuông nhà thờ làng bên buông những hồi dóng dả để báo hiệu những đêm kinh khủng đã kết thúc, và cũng là để nguyện cho hồn những người đã khuất.

Ngày 27 tháng Giêng năm 1973, Hiệp định Hòa bình ở Paris được kí kết.

Đ.T.H
(132/02-2000)


--------------------------------------------------------------------
(*) Một thể điện của cái đẹp (hoặc một vật đẹp.N.D) là một niềm vui cho tới bất tận.




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...

  • ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.

  • PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.

  • BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...

  • NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.

  • PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG    Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.

  • PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...

  • Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.

  • TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.

  • KEVIN BOWEN
    (Giám đốc WJC)

    LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.

  • NGUYỄN BÁ CHUNG

    Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.

  • VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.

  • NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).

  • PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.