Mùa xuân, ngẫm từ chuyện “Tết trồng cây”

09:16 20/01/2017

VĨNH AN

Trong bài viết trên báo Nhân dân số 2082, ngày 28/11/1959, ký tên Trần Lực, Bác Hồ đã phát động “Tết trồng cây”: “Chúng tôi đề nghị tổ chức một ngày “Tết trồng cây”. Việc này ít tốn kém mà lợi ích rất nhiều”.

Bác hết sức chú trọng việc phát động toàn dân trồng cây. Bác làm thơ, viết báo, trực tiếp đi trồng cây, nói chuyện và vận động nhân dân tham gia “Tết trồng cây”. Ban đầu Bác viết: “Mùa Xuân là Tết trồng cây/ Làm cho đất nước mỗi ngày một xuân”; sau Bác sửa lại thành “càng ngày càng xuân”. Đã hơn nửa thế kỷ lời kêu gọi và chính Bác phát động “Tết trồng cây” vẫn còn mãi giá trị và đã đi vào nếp sinh hoạt của cán bộ, nhân dân cả nước. Đó là một mỹ tục trong dịp Tết hết sức nhân văn, song cũng rất hiệu quả về kinh tế.

Với Bác, trồng cây là phải thiết thực chứ không chỉ là những con số báo cáo. Bác nói “trồng 100 cây mà sống cả 100 còn hơn trồng 1000 cây mà sống chỉ 90 cây”. Năm 1969, Bác Hồ đi trồng cây ở xã Vật Lại (Hà Tây cũ), có một chuyện khiến nhiều người nhớ mãi. Hôm đó gặp Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An, Bác hỏi về việc trồng rừng, nghe báo cáo Bác khen và hỏi: “Nghệ An trồng hàng triệu cây, vậy có bao nhiêu cây chết, chú có cho đếm được không?” Bí thư Nghệ An chịu. Bác nói: “Nghệ An là quê Bác, các chú làm không tốt thì Bác vui sao được, các chú chỉ nghĩ đến thành tích mà không nghĩ đến hậu quả, thế cũng là chưa thật thà với nhân dân. Trồng cây nào cũng phải sống tốt cây ấy, phải biết chăm sóc cây, không để lãng phí công sức và của cải vật chất”.

Bác cũng nhiều lần nói về giá trị của việc bảo vệ rừng. Tại Hội nghị Tuyên giáo miền núi năm 1963, Bác nhắc nhở: “Các cô, các chú cần hết sức chú ý vấn đề bảo vệ rừng. Nếu cứ để tình trạng đồng bào phá một ít, nông trường phá một ít, công trường phá một ít, thậm chí đoàn thăm dò địa chất cũng phá một ít, thì rất tai hại. Phá rừng thì dễ, nhưng gây dựng lại rừng phải mất hàng chục năm. Phá rừng nhiều như vậy sẽ ảnh hưởng đến khí hậu, ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống rất nhiều”. Người xót xa trước cảnh rừng bị tàn phá, khai thác bừa bãi: “những cây gỗ to bị chặt để đốt hay để cho mục nát thì không khác gì đồng bào tự mình đem tiền bạc bỏ xuống sông”. Người cảnh báo cho toàn thể cán bộ, nhân dân về sự nguy hại của việc chặt phá, khai thác rừng bừa bãi, dẫn đến sự phá vỡ cân bằng môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất.

Thực tế hiện nay, không ít cơ quan, đơn vị được giao bảo vệ rừng thì lại là người phá rừng hoặc tiếp tay cho bọn lâm tặc phá rừng, mà phá nhiều sẽ ảnh hưởng lớn đến đời sống nhân dân. Rừng có “ông chủ” là các cơ quan, đơn vị của nhà nước, nhưng rừng vẫn bị tàn phá. Thực tế ở miền Trung và Tây Nguyên những năm gần đây rừng bị giảm mạnh là do đầu tư thủy điện quá nhiều. Một con số thống kê từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết: Chỉ tính riêng từ năm 2013 đến nay, đã có 1.700ha rừng bị tàn phá. Riêng khu vực Tây Nguyên, trong 5 năm 2007 - 2012, có khoảng 130.000ha đã “biến mất”. Năm 2016 diện tích rừng Tây Nguyên giảm 180.000ha so với năm 2010; trữ lượng giảm 57 triệu m3...

Năm 2016 vừa qua, những trận lũ lụt khủng khiếp ở miền Trung đã gây thiệt hại lớn về người và của. Phá rừng được xem là nguyên nhân chính gây nên tình trạng lũ lụt diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Ở nhiều khu vực miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên, những vạt rừng xanh đầu nguồn bị tàn phá, đất lâm nghiệp bị xẻ thịt không thương tiếc khiến người dân đã, đang hứng chịu hậu quả. Đáng nói hơn, những dự án thủy điện được cho là mang lại quyền lợi về kinh tế nhưng lại đang trực tiếp phá rừng. Thủy điện không thể chối bỏ trách nhiệm gây ra những trận lụt liên tiếp khủng khiếp trong năm qua. Tất nhiên là không thể đổ hết tất cả các nguyên nhân gây nên lũ lụt, gây nên thiệt hại lên đầu thủy điện; thế nhưng chúng ta nghĩ gì khi mà để làm một thủy điện loại nhỏ, đã phải mất hàng ngàn hecta hồ chứa, rừng phải bị chặt phá để lấy diện tích cho lòng hồ, do đó trách nhiệm của thủy điện trước bao mất mát của đồng bào miền Trung là không thể bao biện. Các dự án thủy điện ở miền Trung luôn đưa ra những hứa hẹn về điều tiết lũ, cắt giảm lũ; họ cũng hứa trồng rừng, trả lại rừng khi nhà máy thủy điện đi vào vận hành. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều thủy điện đã xả lũ vô trách nhiệm, và cũng nhiều diện tích rừng đã mất chưa hề được trồng lại. Chưa kể là nhiều thủy điện hoàn trả rừng bằng cách trồng cây cao su, họ vừa trồng vừa lớn tiếng: “Cây cao su là cây đa mục tiêu, phát triển kinh tế, chống xói lở, phòng chống lũ”. Vậy nhưng thực tế cây cao su trồng cách nhau mỗi cây là 5m, không ngăn được mưa lũ, mưa và đá cứ thế chảy tuột vào nhà dân. Không thể mãi để tình trạng cứ mưa lũ là toàn vùng bị thiệt hại toàn diện như hiện nay, chính sách trả lại rừng của các thủy điện cần phải giám sát chặt chẽ và thông tin rộng rãi.

Một thực tế khác của trồng rừng: Hơn nửa thế kỷ qua, nước ta chỉ quan tâm nhập khẩu các giống cây giá trị kinh tế và sinh thái không cao, thậm chí là nghèo kiệt đất như keo lá tràm, keo tai tượng, bạch đàn (chỉ vài tuổi là khai thác làm nguyên liệu giấy, làm dăm gỗ xuất khẩu)… mà bỏ quên các giống cây rừng nhiệt đới vốn đã thích nghi khí hậu thổ nhưỡng, có tác dụng giữ nước, cản lũ rất tốt, giá trị kinh tế cao…

Tính đến cuối năm 2015, cả nước có trên 14 triệu ha rừng, độ che phủ rừng đạt 40,84%. So với năm 2014, tổng diện tích rừng cả nước tăng 265.350 ha; độ che phủ rừng tăng 0,41%. Có thể nói từ năm 2015, cả nước đã cơ bản chặn được tình trạng suy giảm về diện tích rừng tự nhiên (như đã xảy ra trong các năm 2013, 2014 so với năm 2012). Song cũng cần nhìn nhận một cách khách quan là tài nguyên rừng đang đứng trước nhiều thách thức, tác động từ những yếu tố, điều kiện khách quan như biến đổi khí hậu, sức ép từ phát triển kinh tế - xã hội, cũng như các yếu tố chủ quan từ tác động của con người, trong đó phải kể đến là trách nhiệm của chủ rừng, chính quyền các cấp, các lực lượng làm công tác quản lý, bảo vệ rừng.

Trong thư gởi Đại hội Hợp tác xã và đội sản xuất tiên tiến miền núi và trung du, Bác Hồ nhắc nhở: “Phải bảo vệ rừng như bảo vệ nhà cửa của mình”.

Thực trạng thiên tai hằng năm diễn ra ở nước ta rất nhiều như bão lũ, sạt lở đất, cát lấn; nếu không có hệ thống rừng phòng hộ, rừng ngập mặn được chăm sóc hằng năm thì liệu rằng con số thiệt hại do thiên tai mang đến không dừng lại ở mức đã thống kê. Có thể nói rừng chính là bùa hộ mệnh, giúp cho đời sống con người luôn được bình an.

Mùa xuân, nhớ lời dặn “Tết trồng cây” do Bác Hồ phát động từ năm 1959, nay vẫn còn rất thời sự. Bảo vệ rừng và trồng rừng, đó cũng là cách thiết thực nhất trong việc học tập đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

V.A  
(TCSH336/02-2017)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "

  • Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.

  • Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H

  • Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.

  • Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".

  • (Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.

  • Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?

  • Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.

  • Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.

  • Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!