Một lời nói tối hậu với con người

10:09 01/06/2009
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

Với ý nghĩa trên, tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu chứa đựng nhiều ẩn số bất ngờ và có khả năng mở ra những tầng nghĩa sâu xa để người đọc không ngừng chiêm nghiệm, suy ngẫm.

Tác phẩm đề cập đến những vấn đề vừa có tính thời sự, vừa có tính muôn thuở. Đó là sự hoành hành, thao túng của cái ác mà tiêu biểu là bọn lâm tặc; sự thoái hóa, biến chất và mất dần tính người ở con người, ngay trong hàng ngũ Đảng viên; sự trả giá đớn đau của con người trong cuộc đấu tranh giành lại cái thiện.

Dĩ nhiên, giải thưởng dành cho tác phẩm không chỉ ở chiều sâu văn bản mà còn ở hình thức nghệ thuật độc đáo của một ngòi bút già dặn, sắc sảo, có tay nghề cao. Một lối viết rất lạ, không đi theo một khuynh hướng hay một thể thức nhất định nào. Cách viết hiền lành, nghiêm cẩn như một đặc điểm quen thuộc của nhà văn Nguyễn Khắc Phê nay đã bị phá vỡ. Tính chất "giễu nhại", lối nói "cợt nhả" pha lẫn màu sắc huyền thoại đã tạo cho tác phẩm một không gian riêng trong xu hướng tiểu thuyết hiện nay.

1. Cốt truyện đơn giản, nhân vật ít, nhưng tình tiết phức tạp, vấn đề rối rắm. Câu chuyện kể về làng Sim ở rặng núi Yên Ngựa, thuộc miền Trung. Đức - nhân vật chính, trở về từ chiến trường miền Nam, mang theo trên cơ thể nhiều thương tật; đau khổ hơn là không còn khả năng sinh con vì chất độc màu da cam. Trở về hậu phương, anh lại lao vào một cuộc chiến đấu mới: chống lại bọn lâm tặc để bảo vệ rừng xanh. Lòng bao dung và tính trung thực của anh đã bị kẻ ác hãm hại. Anh bị chúng hành hạ bằng một hình thức dã man không kém gì nhà tù đế quốc: biến thành một cây thập giá sống giữa rừng sâu. Đói khát, đau đớn và cái chết đã cận kề. Cuối cùng, anh cũng được cứu sống, nhưng không phải bởi con người mà là một con hổ.

Mặc dù hình tượng người trần thuật ở ngôi thứ ba số ít, nhưng rất khó xác định một "tiếng nói xuyên văn bản". Tiếng nói người kể chuyện thường xuyên bị các nhân vật tiếm vị, nhất là những lúc độc thoại và đối thoại. Nhân vật trong truyện rất ít khi trùng khít vào chính bản thân mà là vô số con người trong mỗi bản thể hắn ta. Tính chất này càng tăng thêm độ quyết liệt trong sự giằng xé đau đớn, cam go giữa phần con và phần người, giữa cái thiện và cái ác, giữa cái cao quí và cái thấp hèn.

2. Ý nghĩa phê phán và chiều sâu văn bản trước hết là ở biểu tượng cây thập giá. Đây vốn là một biểu tượng về Thiên chúa giáo. Tuy nhiên, tác phẩm không nhằm ca ngợi chúa Giêsu, mà là hướng về cõi trần thế với những con người chân trần mắt thịt. Những tác phẩm nghệ thuật chân chính là tác phẩm vô thần. Mà ở đây, thần linh cao nhất là con người, với tất cả những đặc tính tiềm ẩn của nó.

Ý đồ nghệ thuật của tác giả được lộ rõ ngay từ lúc mở đầu: "Không ai biết cây thập giá đầu tiên được dựng trên mặt đất này từ bao giờ. Chỉ biết sau khi Giêsu Nazarét bị Tổng trấn Philatô xét xử thì... những cây thập giá cao vót lên như muốn chọc trời xanh như nhắc nhở con người là cái Ác vẫn lây lan, vẫn không thôi mọc mầm ra rễ như ung thư di căn". Ý đồ đó đã được nhà văn thể hiện tập trung và triệt để nhất qua hình ảnh: Đức bị bọn lâm tặc trói đứng vào cây gỗ hình thập giá như kiểu Giêsu bị đóng đinh, bị hành hình.

Vậy thì, cái ác đâu phải do quỉ Satăng gây ra mà là do chính con người tạo nên. Dối trá, gian hoạt, dâm tặc và tham ô, đó là nguyên nhân đẩy con người đến chỗ tàn nhẫn, mất tính người - hiện thân cho cái ác. Cũng không phải con người bán linh hồn cho quỉ sứ như các cha cố đã răn dạy con chiên, mà chính con người tự biến linh hồn mình thành quỉ sứ. Cả một hệ thống từ trên xuống đều thoái hóa, biến chất và mang linh hồn của quỷ. Ông huyện thì ”ngồi mát ăn bát vàng", lạm dụng quyền hành để "bật đèn xanh" cho cấp dưới thao túng. Hạt trưởng hạt kiểm lâm- người trực tiếp chịu trách nhiệm "chăm lo bảo vệ rừng", lại là một tay buôn gỗ lậu ngoại hạng, luôn thông gian với bọn lâm tặc để chặt phá rừng một cách không thương tiếc. Mậu - vị phó chủ tịch xã, một đảng viên Đảng cộng sản: không chỉ tham lam mà còn dâm ô, không chỉ gian hoạt mà còn tàn nhẫn. Chỉ ba nhân vật trên cũng giúp ta hình dung được sự sa đọa, thoái hóa, biến chất của bộ máy chính quyền ở nơi này. Khi con người đã biến linh hồn thành quỷ sứ thì cái ác sẽ hoành hành, nảy nở và tha hồ "mọc mầm ra như rễ ung thư di căn" là điều đương nhiên.

 3. Sẽ là phạm thượng và thô bạo khi đặt con người bên cạnh động vật để so sánh. Nhưng đâu phải kẻ viết bài này phạm thượng, mà chính là những kẻ thô bạo kia, trong xã hội này, đã dám làm hoen ố danh dự con người. Hãy đặt nhân vật con hổ và nhân vật Mậu lên bàn cân thì sẽ thấy: nó - con hổ có tình và nặng "chất người" hơn Mậu rất nhiều. Kết luận trên được rút ra từ hành động của các nhân vật qua một tình huống đầy gay cấn: Đức bị trói đứng trong đêm giữa rừng sâu và sự đối mặt của ba nhân vật này trước sự sống và cái chết.

Xét trong mối quan hệ giữa Đức và Mậu, Đức và con hổ, thì cả hai đều chịu ơn của anh. Đức đã từng tha cho Mậu cái tội hèn nhát, sợ chết: giả làm bị thương một cánh tay để khỏi ra chiến trường. Đừng tưởng đây là chuyện nhỏ, trong chiến tranh, đó là một trọng tội. Còn con hổ thì được Đức cứu sống trong một trận càn B52 của địch: hổ mẹ bị giết, hổ con còn đỏ hỏn như một con mèo, đang nằm kêu thảm thiết trên vũng máu.

Trong những tình huống gay cấn và cam go nhất thì hành động sẽ là tiêu chí cơ bản để làm thước đo cho bản chất con người. Ba hành động sau của Mậu đã cho thấy y là kẻ vừa vô ơn lại vừa vô nhân: chủ mưu để bọn lâm tặc hành hung Đức bằng hình thức dã man; chiếm đoạt vợ anh; đang tâm giết anh bằng thắt lưng siết chặt vào cổ. Những hành động khả ố và tàn bạo đó đã bộc lộ rõ con người thật của Mậu: y là một con thú mang mặt nạ người. Còn con hổ, tuy đã lạc chủ và bao năm xa cách, vậy mà nó vẫn nhận ra Đức, thậm chí, dám đổi bằng chính mạng sống để cứu anh. Có lẽ, mùi mồ hôi năm xưa trong chiếc áo lót mà Đức đã bọc nó đem về nuôi "chăm bẵm như con đẻ" nay vẫn còn vương lại? Cuộc hội ngộ giữa vật nuôi và chủ khiến cho núi rừng cũng phải cảm động: "Din"(tên của con hổ)... tiếng gọi chỉ nghe như nói thầm... Vậy mà con hổ hình như nghe được, nó hơi nghiêng đầu và chớm bước lên. "Din"... Mày không nhận ra tao à? Hồi nhỏ, tao bế ẵm mày những đêm rét, tao nhường sữa cho mày, nhớ không?... "Din!" Lại đây! Đừng sợ! Chúng nó trói tao... Mày có cách chi cứu tao không?... Tối qua, sao mày biết có đứa định hại tao mà xông vào cứu? Mày không thấy đôi tay tao bị trói chặt đây à? Đừng sợ! Tao chỉ nhúc nhích có vậy thôi... Lâu rồi không ai vuốt ve, tắm táp cho mày, lông lá mày bờm xờm và hôi hám quá!... Kìa, mày làm gì mà nhe răng lè lưỡi dễ sợ thế?... con hổ hiểu lời Đức... nó liền ngoác miệng đớp ngang một đầu thanh gỗ rồi gặm nát. Nó thừa khôn ngoan để không gặm vào bàn tay Đức..." (tr.246-247).

Cuộc hội ngộ cảm động trên có thể chỉ xảy ra trong trang sách nhà văn Nguyễn Khắc Phê, chứ không tồn tại ở ngoài đời thực, nhưng nó đã phản ánh một cách chân thực mối quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên. Không ít những con vật trở nên "có hồn" và "biết nói" nhờ con người đã sống với nó bằng những ánh nhìn ấm áp và những thái độ thiện chí. Dĩ nhiên, cái đích của tác phẩm không chỉ nói đến điều này, mà sâu xa hơn, là qua đó, để nói lên những chiêm nghiệm và suy ngẫm của nhà văn trước con người và cuộc đời.

Tôi muốn nói rằng, qua hành động của Mậu và con hổ (được bộc lộ trong cảnh ngộ của Đức), tác phẩm đã làm bật lên hai vấn đề mà người đọc cần suy ngẫm. Thứ nhất, đừng xem thiên nhiên như một sự đối địch với con người. Con người làm chủ tự nhiên nhưng không hủy diệt tự nhiên. Hãy trở về với ý tưởng ấm áp của nhà nhân văn chủ nghĩa Montaigne ở thế kỷ 16 "Thiên nhiên là bà mẹ vĩ đại nhất của con người". Bất kỳ một sự đối trọng nào với thiên nhiên, con người cũng sẽ hứng nhận những hậu quả đáng sợ. Trận lũ dữ dội ở cuối tác phẩm chính là sự cuồng nộ của thiên nhiên đối với con người.

Thứ hai, con người sẽ có nguy cơ đẩy xuống hàng thú vật nếu không ý thức được danh hiệu cao quí của con người. Quỷ dữ ẩn nấp trong con người chúng ta không gì khác, đó chính là lòng tham và sự tàn nhẫn - nó như một chất axít gặm nhấm phần người và nó sẽ thắng thế bất kỳ lúc nào, nếu chúng ta không thường xuyên tự ý thức để khuất phục nó bằng sự hướng thiện.

Nhìn từ góc độ trên, Thập giá giữa rừng sâu không chỉ là một văn bản nghệ thuật ngôn từ thuần túy, mà là một âm bản vang lên những lời đối thoại không dứt với người đọc.

Lối kết thúc mở với cách xử lửng lơ của vụ án (các tội phạm vẫn êm thấm đâu vào đấy), cũng đã cho người đọc hiểu rằng: không phải lúc nào và bao giờ cái thiện cũng có thể chiến thắng cái ác. Con người không mất niềm tin vào cái thiện nhưng để chiến thắng cái ác là điều không dễ dàng. Mậu - con người vô ơn, vô nhân và là tội nhân kia, cuối cùng lại được giàu có, sung sướng và còn được trọng vọng: Xí nghiệp gỗ giải thể và đã thuộc về Mậu, y nghiễm nhiên trở thành giám đốc nhờ tiền viện trợ của ông bố từ nước ngoài: "Mậu được thơm lây với cái chức Giám đốc và tiền bạc tự do chi tiêu, khiến cho y vênh vang hơn cả trước đây. Bảo rằng y không cần danh hiệu đảng viên và chức Phó chủ tịch là vì thế". Xã hội đã manh nha một loại người mới còn nguy hiểm hơn Mậu trước đây. Thế mới biết chân lý vẫn còn ở phía xa kia và cuộc đấu tranh của loài người còn khắc khoải và đớn đau đến nhường nào.

 4. Tiểu thuyết hiện nay đang có xu hướng đi vào "thế giới mờ đục" hay còn gọi là những "vùng mờ ẩn ức" của tâm linh. Thập giá giữa rừng sâu không phải là cuốn tiểu thuyết tâm lý nhằm "chăm chú vào cái bí ẩn của tâm thần". Và hình như nhà văn Nguyễn Khắc Phê cũng không có mục đích xây dựng một cuốn tiểu thuyết theo dạng ấy. Tuy nhiên, với thủ pháp kéo căng thời gian, tác giả đã tạo ra một hệ quả tất yếu, ngoài dự kiến: những điểm cực của sự dồn nén tâm lý. Mỗi nhân vật là một điểm cực đang tự hành xác mình trong cái thế giới mà nó chẳng bao giờ nhận ra mình là ai. Tính tột cùng của nhân vật vì thế đã đạt đến độ hoàn hảo tuyệt vời.

Sự dồn nén tâm lý nhân vật được thực hiện theo tỷ lệ nghịch với thủ pháp kéo căng thời gian. Sự việc chỉ xảy ra hơn một đêm mà nhà văn trải dài ra gần ba trăm trang sách. Mọi chuyện từ thượng vàng hạ cám, những kỷ niệm xưa và nay đều được dồn vào trong một đêm. Mọi nhân vật cũng bị dồn vào trong đêm. Chúng suy tư trong đêm, "sờ soạng" trong đêm và hành sự trong đêm. Chính trong không gian đêm, các nhân vật mới có thể mưu mô, tính toán, và mới dám bộc lộ hết con người thật của chính mình. Đêm như kéo dài ra vô tận để cho mỗi nhân vật khắc khoải theo mục đích của riêng mình. Hòa thì khắc khoải đợi chồng, nén thở để lắng nghe một chiếc lá rơi, một tiếng bước chân người, một âm thanh vang lên trong đêm, và lắng nghe cả nỗi lòng xao động, "râm ran" của chính mình. Đức cũng thắc thỏm đối diện trước cái chết, đối diện với nỗi cô đơn giữa núi rừng hoang vắng, huyền bí đến rợn người. Và nhất là Mậu, y như căng ra trong nỗi dục vọng hau háu để "chiếm được con mồi". Giết hay không giết Đức? chiếm được Hòa hay không chiếm được Hòa? Những ý nghĩ đối cực đó đã dồn y vào một trạng thái tâm lý căng thẳng đến tột cùng. Tâm hồn y như vữa ra trong đêm, tan ra trong đêm. Và y thực sự đã trở thành một con bệnh tâm thần, nhất là lúc bị "bóng ma Đức" hiện về ám hại.

Đêm tối giúp con người nhận ra chính mình, nhưng đêm tối cũng đồng lõa với tội lỗi. Đêm tối đã nhấn chìm tâm hồn con người, biến con người thành linh hồn của quỷ sứ. Vì thế, Hòa mới có nguyên cớ để phản bội lại chồng, Mậu mới có cơ hội để phản bội lại ân nhân của mình. Không gian đêm đã trở thành một hình tượng nghệ thuật đầy sức ám gợi, giúp nhà văn khắc họa thành công thế giới nội tâm của nhân vật. Thủ pháp kéo căng thời gian và dồn nén tâm lý, vì thế, theo tôi, là một đặc điểm nghệ thuật cơ bản làm nên nét riêng độc đáo của tác phẩm này. Và chỉ khi nào nhà văn tuân theo thủ pháp nghệ thuật này, thì lời nói tối hậu trên về con người mới có thể có hiệu quả và tạo sức âm vang.

Lối kết cấu "ngông cuồng", phi logic và cách nhà văn "lỡm" chúng ta ở một số tình tiết, sự kiện trong tác phẩm cũng đã mang lại những thú vị bất ngờ. Chẳng hạn, đoạn nhà văn đưa ra thông tin giả là Đức đã bị hổ xé xác - một kết cục đi ngược lại mong muốn của bạn đọc, khiến cho "ai nấy" đều run lên vì giận dữ và thất vọng. Dĩ nhiên, đó chỉ là thông tin "dỏm". Hay đoạn giả mở phiên tòa xét xử theo kiểu Bao Công với những lời thị uy rất Bao Công, và sự gặp gỡ bất ngờ giữa bà Hợi với ông Huyện Đường- người tình vụng trộm năm xưa của bà. Rồi một số tình tiết khác như sự đụng đầu thú vị giữa Mậu và Bá vì đang mải mê bối rối trước cảnh người đàn bà "phởn phơ" đang "thoát y" tắm táp...v.v.

Hình như Thập giá giữa rừng sâu "có duyên" và "thông minh" hơn những đứa con mà nhà văn đã sinh ra trước đó rất nhiều. Tôi những muốn nói rằng, nếu nhà văn Nguyễn Khắc Phê cứ tiếp tục phá vỡ lối viết nghiêm cẩn, hiền lành trước đây và duy trì cái lối viết vừa bỡn cợt mà đằm thắm, vừa gân guốc mà tha thiết này, thì tin chắc rằng, ông sẽ gặt hái được những kết quả khả dĩ trên địa hạt của thể loại tiểu thuyết.

Tôi vẫn cảm thấy nuối tiếc một điều gì đó khi đọc xong tác phẩm này. Hình như tác giả chưa thật sự dụng công trong việc xây dựng nhân vật chính. Ngoài lòng cao thượng, vị tha, đức hi sinh cao cả, nhân vật Đức cần có thêm một gương mặt sắc cạnh, một ngôn ngữ cá tính, một bản thể hai mặt của phần con và phần người. Một vài hành động và chi tiết cũng chưa thật sự phù hợp với bản chất của hình tượng nhân vật này. Con người từng trải và thấu đáo như Đức làm sao có thể chiến đấu chống lại bọn lâm tặc một cách bồng bột và đơn độc như vậy? Và nhất là cái chết của Đức. Đức chết là cần thiết, nhưng có nên chết bằng cách ấy không? Chẳng phải tác giả lẫn bạn đọc đã khao khát sự hòa điệu giữa con người và thiên nhiên, mà Đức là biểu tượng cho niềm mong ước đó? Vậy thì, sự phẫn nộ của thiên nhiên phải dội lên đầu của bọn lâm tặc kia, chứ sao lại là Đức? Giá tác giả biết khắc phục được những điểm này, tôi nghĩ, cuốn tiểu thuyết còn đi xa hơn nữa.

Mỗi cuốn tiểu thuyết, nói như Kundera, dẫu muốn hay không muốn đều đề xuất một câu trả lời trước câu hỏi: Con người là cái gì vậy? Thập giá giữa rừng sâu đã phần nào trả lời được câu hỏi đó. Lời nói tối hậu trên về con người đã khiến cho mỗi chúng ta phải day dứt về sự tồn tại của chính mình ở thế giới này. Sự day dứt một cách có ý thức đó sẽ là "cái ngưỡng" để giúp chúng ta không tuột khỏi cái lằn ranh giới - phần cao quí của con người.

T.H.S
(174/08-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐĂNG MẠNH(Kỷ niệm 70 năm ngày mất nhà văn Vũ Trọng Phụng 1939 - 2009)Trong lĩnh vực văn chương, tác phẩm không hay, không có giá trị nghệ thuật thì chỉ là con số không, chẳng có gì để nói, để bàn. Người viết ra nó, dù cuộc đời có ly kỳ thế nào, người ta cũng chẳng quan tâm.

  • ĐỖ LAI THÚYHòn đất cũng biết nói năng(Nhại ca dao)

  • HOÀNG CẦMĐang những ngày hè oi ả, mệt lử người thì anh ấy mời tôi viết Bạt cho tập thơ sắp muốn in ra. Ai đời viết bạt cho tác phẩm người khác lại phải dành trang giấy đầu tiên để viết về mình? Người ta sẽ bảo ông này kiêu kỳ hay hợm hĩnh chăng? Nhưng cái anh thi sỹ tác giả tập thơ thì lại bảo: Xin ông cứ viết cho, dẫu là bạt tử, bạt mạng, thậm chí có làm bạt vía ai cũng được - Chết, chết! Tôi có thể viết bạt mạng chứ sức mấy mà làm bạt vía ai được.

  • ĐẶNG ANH ĐÀOTrong tác phẩm nghệ thuật, phân biệt thật rạch ròi cái gì là ý thức, sáng suốt, tự giác với cái gì vô ý thức, tự phát, cảm tính không phải là điều đơn giản. Ngay cả những nhà văn lãng mạn như Huygô, nhiều lúc sử dụng nhân vật chính diện như những cái loa phát biểu lý tưởng của mình, thế mà đã có lúc Kessler bịt miệng lại không cho tán tụng nhân vật Côdet và mắng rằng: Huygô anh chả hiểu gì về tác phẩm ấy hết", đồng thời tuyên bố rằng ông còn thích Epônin gấp bội lần "Côdet, cô nàng điệu đàng đã tư sản hóa ấy".

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU…Với tôi, Balzac là Tiểu thuyết, và Tiểu thuyết là Balzac, - tiểu thuyết Balzac là "tiểu thuyết tuyệt đối", tức là nó biểu hiện tất cả sức mạnh sáng tạo của ông, tất cả cái "lực" của ý thức và tâm linh, của khoa học và tôn giáo, từ cấu trúc truyện và thời - không gian (chronotope), đến cấu trúc nhân vật, tất cả phối âm, tương ứng với nhau thành một dàn nhạc hoàn chỉnh…

  • HỮU ĐẠTKhông phải ngẫu nhiên, Trần Đăng Khoa lại kết thúc bài viết về Phù Thăng một câu văn rất là trăn trở: "Bất giác... Tôi nắm chặt bàn tay gầy guộc của Phù Thăng, lòng mơ hồ rờn rợn. Chỉ sợ ở một xó xỉnh nào đó, sau lùm cây tối sầm kia, lại bất ngờ cất lên một tiếng gà gáy..." Ta thấy, sau cái vẻ tếu táo bên ngoài kia lắng xuống một cái gì. Đó là điểm gợi lên ở suy nghĩ người đọc.

  • HÀ QUANG MINHTôi không muốn chỉ bàn tới cuốn sách của ông Khoa mà thôi. Tôi chỉ coi đó là một cái cớ để bàn luận về nền văn học nước nhà hiện nay. Là một người yêu văn học, nhiều khi tôi muốn quên đi nhưng vô tình vấn đề nẩy sinh TỪ "CHÂN DUNG VÀ ĐỐI THOẠI" đã trở thành giọt nước cuối cùng làm tràn ly và lôi tuột cái nỗi đau mà tôi muốn phớt lờ ấy. Phải, tôi thấy đau lắm chứ. Bởi lẽ ai có ngờ mảnh đất trong sáng mang tên văn học sao giờ đây lại ô nhiễm đến thế.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(góp phần định nghĩa minh triết)         (tiếp Sông Hương số 248)

  • Việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính hiện đại đã hình thành ra các trường phái âm nhạc như: âm nhạc Nga, Pháp, Mỹ, Trung Hoa . . .

  • Phê bình thi pháp học đã mang đến sức sống mới cho phê bình văn học Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu cho rằng thi pháp học là phương pháp minh chứng cho thành quả thay đổi hệ hình nghiên cứu trong phê bình văn học.

  • Hiện nay trên thế giới, quan niệm về Nghệ thuật tạo hình, Nghệ thuật thị giác và Mỹ thuật mang ý nghĩa gần giống nhau. Nó bao gồm: hội họa, đồ họa, kiến trúc, điêu khắc, trang trí ứng dụng, video clip, sắp đặt v.v..Loại hình nghệ thuật này luôn xuất hiện bằng những hình ảnh (image) thu hút mắt nhìn và ngày càng mở rộng quan niệm, phương thức biểu hiện cũng như khai thác chất liệu. Tuy nhiên, để hiểu thế nào là nghệ thuật trong tranh, hoặc vẻ đẹp của một công trình nghệ thuật còn là câu hỏi đặt ra với nhiều người.

  • HÀ VĂN LƯỠNGPuskin không chỉ là nhà thơ Nga vĩ đại, nhà viết kịch có tiếng mà còn là nhà cải cách văn học lớn. Là người “khởi đầu của mọi khởi đầu” (M. Gorki) Puskin bước vào lĩnh vực văn xuôi với tư cách là một người cách tân trong văn học Nga những năm đầu thế kỷ. Những tác phẩm văn xuôi của ông đã đặt cơ sở vững chắc cho văn xuôi hiện thực và sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga, góp phần khẳng định những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây trên tuần báo Văn Nghệ đã có bài viết bàn về vấn đề đào tạo "Văn hóa học", nhân dịp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra nghị quyết V về xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

  • PHAN TUẤN ANH “Cuộc nói chuyện của chúng ta đã cho tôi thấy rằng hết thảy những gì liên quan đến bản chất của ngôn ngữ mới ít được nghĩ đến làm sao”                                       (Martin Heidegger)

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học sáng tác là nhằm để cho người đọc tiếp nhận. Nhưng thực tế là người đọc tiếp nhận rất khác nhau. Lý luận tiếp nhận truyền thống giải thích là do người đọc không sành.

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.

  • LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.

  • Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.

  • ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.