Nếu lấy mốc thời điểm năm 1919 để xét đoán Different from the others là bộ phim đầu tiên trực diện về đề tài đồng tính, thì đến nay, lịch sử khai thác đề tài “cấm kỵ” này đã có một hành trình dài gần như song song cùng với sự ra đời của nghệ thuật thứ 7. Với tính chính trị xã hội và đạo đức, cho đến nay, đây vẫn là một vấn đề hết sức đặc biệt trong mọi loại hình nghệ thuật. Lịch sử điện ảnh đã ghi nhận rất nhiều bộ phim với những diễn ngôn tư tưởng khác nhau, thậm chí đối lập. Yêu cầu cấp thiết đặt ra, đó là việc phải “nhận thức lại thực tại”, đặt ra/xác quyết lại quan điểm của công chúng về một tầng lớp người vốn bị xem như “bệnh hoạn”/“lạc loài”…
Ảnh: internet
LÊ QUỐC HIẾU
Dù muốn hay không, giới tính thứ ba và những vấn đề về cộng đồng giới tính thứ ba đã và đang tồn tại trong xã hội như một thực tế hiển nhiên. Không thể phủ nhận đây là một đề tài đặc biệt trong mọi loại hình nghệ thuật không riêng gì điện ảnh. Với tính chính trị - xã hội, đặc biệt gắn liền với tính dục và tình dục đồng giới, nên trước đây, đồng tính luôn là một đề tài cấm kị (taboo subject). Hiện nay, xu hướng tiếp nhận đã trở nên cởi mở hơn. Các đạo diễn đã chủ động, mạnh dạn sáng tạo để có những thể nghiệm đầy táo bạo, bộc lộ thẳng thắn đến không khoan nhượng quan điểm, suy nghĩ/diễn ngôn của mình. Trong hành trình thể nghiệm đó, những vấn đề đã được đặt ra, hình thành nên nhiều xu hướng tiếp nhận đa chiều. Tuy nhiên, một thực tế cũng phải nhìn nhận, nếu xét tương quan đề tài đồng tính trong điện ảnh Việt, rõ ràng, không ít đạo diễn và biên kịch đã và đang dựng lên một lớp “nhân vật thiểu số” với đầy màu sắc giễu nhại. Nhân vật đồng tính xuất hiện trên điện ảnh Việt chỉ như những “bóng hồng ẻo lả, dặt dẹo”, hòng gây cười cho người xem.
![]() |
Phim The Dickson Experimental Sound |
Cứ liệu sớm nhất để xét đoán thể nghiệm sơ khai đề tài đồng tính trong điện ảnh gắn liền với những bước đi chập chững của nghệ thuật thứ 7. Đó là vào năm 1895, bộ phim ngắn The Dickson Experimental Sound Film của William Dickson miêu tả hai người đàn ông ôm nhau nhảy tình tứ trong tiếng nhạc lãng mạn. Nhiều nhà phê bình điện ảnh cho rằng đây là đạo diễn đầu tiên đã đưa hình ảnh người đồng tính lên “cuốn sách hình”, dù rằng, nhận định này chưa có những căn cứ xác đáng, nhất là sự tương đồng trong chủ ý của chính đạo diễn. Những bộ phim sau đó, chỉ dừng lại ở một mức độ đề cập rất hạn chế, còn gây nhiều tranh luận về việc có hay không vấn đề đồng tính?… Trong một số bộ phim tiêu biểu như: Algie the Miner (1912), A Florida Enchantment (1914), The Wings (1916)… hình ảnh người đồng tính rất mờ nhạt còn mang đậm tính giải trí, hài hước nhằm câu khách hoặc tạo ra những câu chuyện khác lạ. Trước khi Bộ luật Hays(1) được ban hành, có một xu hướng các đạo diễn thường đảo lộn giới tính nhân vật, cho một diễn viên nữ đóng giả nam hoặc ngược lại… Bộ phim A Woman (1915) bắt đầu bằng việc Chaplin gặp gỡ Edna và cha mẹ cô ấy trong công viên. Chaplin cải trang thành một cô gái hòng đánh lừa cha của Edna. Đây là lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng Chaplin diễn vai như một người phụ nữ trên phim. Xu hướng này còn được tiếp diễn nhiều trong các bộ phim khác như: A Florida Enchantment (1914), Mabel’s Blunder (1914), Sylvia Scarlett (1936)… Trong khi đó, những vấn đề quan thiết đến số phận, bi kịch người đồng tính trong mối ràng buộc với đạo đức xã hội, văn hóa, chính trị, tôn giáo lại không được đề cập một cách trực tiếp.
Điện ảnh Hollywood được ví như “mảnh đất hứa” với những chiến thắng vang dội của vô số những tác phẩm điện ảnh thành công, những đạo diễn tên tuổi, những chủ đề, đề tài được khám phá/thể nghiệm. Nhưng điện ảnh Hollywood lại không phải là nơi đầu tiên có những thể nghiệm táo bạo về đề tài đồng tính. Ở những thập niên đầu, đề tài này còn được đề cập rất hạn chế và nhanh chóng bị “làm mờ” giữa các diễn ngôn tư tưởng khác…
![]() |
Phim Different from the others |
Tác phẩm đầu tiên miêu tả trực diện đề tài đồng tính phải kể đến Different from the others (1919), bộ phim câm của Richard Oswald - đạo diễn người Đức có vài trò tiên phong đưa đề tài đồng tính lên màn ảnh và đồng sáng tác bởi nhà tâm lý học nổi tiếng Magnus Hirschfeld - người sáng lập phong trào giải phóng đồng tính ở Đức năm 1897. Mặc dù, nhân vật chính là một nhạc công, cuối cùng tự tử bằng thuốc độc, nhưng xuyên suốt bộ phim là tinh thần chống lại định kiến xã hội - Điều 175(2). Bộ luật hình sự Đức từ năm 1871 tuyên cáo đồng tính luyến ái là tội phạm. Mặc dù bộ phim bị cấm chiếu ở một số nước; bị cắt bỏ; phá hủy và hiện chỉ còn lại vài đoạn phim rời rạc nhưng nó được ví như một nguồn cảm hứng/sức mạnh ào ạt, biểu trưng cho tinh thần tự do chống lại tư tưởng cổ hủ, hà khắc về đồng tính.
Trong những năm 30 và thời kỳ hoàng kim thập niên 40 thế kỉ XX của điện ảnh Hollywood, đề tài đồng tính không được đề cập nhiều thậm chí khá mờ nhạt. Trong một vài tác phẩm, hình ảnh người đồng tính chỉ xuất hiện thoáng qua với những vai diễn phụ, cử chỉ, điệu bộ khá kín đáo, ngầm ẩn. Một số bộ phim tiêu biểu như: Morocco (1930), Queen Christina (1933), Rebecca (1940), The Maltese Falcon (1941), The Third Man (1949)…
Chưa có một đề tài nào lại “sóng gió”, “gian truân” trên điện ảnh như đề tài đồng tính. Trong suốt những thập niên tiếp theo, điện ảnh Hollywood đã bắt đầu đi vào xu hướng khai thác với thái độ thương hại, thù hằn. Nhân vật đồng tính nam (gay) và đồng tính nữ (lesbian) được miêu tả như những kẻ tâm thần, biến thái, giết người, chống lại xã hội và thường xuyên bị quấy rối bởi cảnh sát. Mở đầu cho xu hướng này phải kể đến bộ phim Rope (1948, Alfred Hitchcock) được xây dựng từ câu chuyện có thật về cặp đôi đồng tính nam giết bạn học cùng lớp bằng một sợi dây thừng. Xác chết được giấu trong chiếc hòm đặt trong phòng khách. Họ mời mọi người đến dự tiệc như để thách thức, chứng minh trí tuệ ưu việt từ hành vi giết người một cách hoàn hảo. Một số bộ phim khác như: Victim (1961), Rebel Without A Cause (1955), The Children’s Hour (1961)… Cả hai phim Rebel Without A Cause và The Children’s Hour nhân vật đồng tính đều có chung kết cục tự tử. Đây phải chăng là một bản án tử hình với người đồng tính, đồng thời thể hiện cái nhìn tàn nhẫn, băng giá của xã hội đối với họ?
Những nguyên tắc trong Bộ luật Hays đang dần dần được tự do hóa, lơi lỏng, thay thế bằng Hệ thống phân loại phim được thành lập bởi Hiệp hội điện ảnh Mĩ (1/10/1968). Đồng thời, cuộc Cách mạng tình dục(3) đã thay đổi/cởi mở ít nhiều tư tưởng, quan niệm của xã hội về vấn đề này. Bước ngoặt đáng kể nhất, từ năm 1973 Hiệp hội tâm thần học Mĩ không còn xem đồng tính luyến ái như một căn bệnh tâm thần. Những biến động trong sự kiện văn hóa chính trị đã dẫn đến những thay đổi ít nhiều trong quan niệm, định kiến xã hội về đồng tính. Từ thực tiễn sinh động của sáng tạo điện ảnh trong hơn hai thập niên gần đây (từ năm 1990), chúng tôi tạm thời khái quát quá trình này qua một số xu hướng làm phim chính:
Xu hướng thứ nhất thường thể hiện hình ảnh những người đồng tính một cách bệnh hoạn đầy màu sắc giễu cợt, phê phán... Có rất nhiều bộ phim xây dựng hình ảnh người đồng tính làm trò câu khách, rẻ tiền bởi đạo diễn không hiểu được nỗi cô đơn, bấn loạn của con người khi bị chọc ngoáy vào nỗi đau bản thể, sự cô độc và cái chết. Diễn ngôn từ những bộ phim này, xét ở khía cạnh tư tưởng chủ đề, quả thật là một sự bôi nhọ, một kiểu “gây hấn”, công kích người đồng tính, góp phần vào việc tạo ra thái độ khinh bỉ, thờ ơ. Bộ phim kinh dị The Silence of The Lambs (1991) đạo diễn Jonathan Demme chuyển thể từ tác phẩm cùng tên, xây dựng hình ảnh tên giết người tâm thần hàng hoạt Bill Buffalo chuyên thiết kế y phục phụ nữ từ da người sống. Hành động biến thái này phát sinh từ việc chuyển đổi giới tính thất bại. Một số bộ phim giai đoạn sau này, có đi sâu vào việc miêu tả những nhân vật chuyển đổi giới tính (transexual) hoặc song tính (bisexuals). Tuy nhiên, sự miêu tả này cũng mới chỉ dừng lại ở việc khắc họa một phương diện/một vài cá thể rất nhỏ của giới tính thứ ba: tội phạm, pháp luật… (đa bội thêm cảm giác ghê sợ và cái nhìn vốn dĩ lệch lạc) hầu như còn chưa đi sâu vào việc thể hiện những góc khuất khác đáng được mạnh dạn “phơi lộ”, đồng cảm và chia sẻ hơn…
Soi chiếu xu hướng này vào điện ảnh Việt Nam đương đại, không khó để nhận ra một sự thực đau lòng. Hầu hết các phim Việt hiện nay, đều đưa hình ảnh người đồng tính lên màn ảnh như một phương cách để mua vui, “kích thích” trí tò mò của khán giả đồng thời cách chuyển tải câu chuyện hết sức phiến diện, phi lý, phản cảm, đậm màu sắc nhục dục. Một số phim Việt Nam tiêu biểu như: Gái nhảy (2003), Trai nhảy (2007), Cảm hứng hoàn hảo (2011), Để mai tính (2012)… Ngoài ra, một số phim nước ngoài cùng thuộc xu hướng thứ nhất như: Broadway melody (1929), Morocco (1930), Call her savage (1932), Some like it hot (1951), Velvet goldmine (1998), Iron ladies (2000)…
![]() |
Phim Milk |
Xu hướng thứ hai thường gắn các vấn đề về đồng tính trong mối quan hệ với chính trị, xã hội. Đó là tư tưởng dấn thân trong việc đấu tranh, giải phóng người đồng tính khỏi cái nhìn lệch lạc, ác cảm, định kiến cổ hủ. Tuy nhiên, trong nhiều bộ phim, xu hướng này còn chưa được hiển lộ một cách phong nhiêu, nhiều khi còn bị “làm nhiễu”, bị “lệch tâm” bởi những tư tưởng chủ đề khác. Chúng tôi minh họa cho luận điểm này bằng việc giới thiệu tóm lược bộ phim Milk (2008). Phim nói về Harvey Milk, chính trị gia gay đầu tiên được bầu vào hội đồng thành phố San Francisco. Trong suốt mấy chục năm qua, Milk vẫn là biểu tượng cho phong trào đấu tranh vì “gay” tại Mỹ. Đứng trước sự phân biệt đối xử của xã hội và chính quyền Mỹ - những người coi “gay” là một thứ bệnh dịch, một tội lỗi trước Chúa, Milk đã biến cửa hàng Castro Camera của mình ở San Francisco trở thành căn cứ đấu tranh hợp pháp cho “gay”, nơi đem lại cho những “con bệnh của nước Mỹ” niềm hy vọng. Phần lớn phim xoay quanh những cuộc vận động chính trị của Milk, những bài diễn văn cảm động, những giờ phút tuyệt vọng của Milk trước thế lực tôn giáo/phản đối giới tính thứ ba, luôn nhăm nhe đẩy giới gay ra ngoài vòng pháp luật, và đương nhiên, cả những suy nghĩ lạc quan đến khó tin của Milk trong vô vàn những khó khăn của cuộc sống riêng tư và sự nghiệp chính trị.
![]() |
Phim Philadelphia |
Cùng chung xu hướng tiếp cận diễn ngôn từ góc độ chính trị, xã hội phải kể đến bộ phim Philadelphia (1993). Được thai nghén từ câu chuyện có thật về Geoffrey Bowers - một luật sư đã kiện công ty luật Baker và McKenzie vào năm 1987 vì đã kỳ thị người bị AIDS khi cho một người bị mắc bệnh này nghỉ việc, Philadelphia được ví như một cú phản pháo ngoạn mục vào thành trì định kiến giới. Không có cốt truyện với những tình tiết ly kì, giật gân, những cảnh khoe da thịt cháy bỏng thường thấy trong Xu hướng thứ nhất, rõ ràng ở Philadelphia, tính chất nghiêm túc của một kịch bản tiên phong, của một diễn ngôn thẳng thắn/gai góc đã được thể hiện nghiêm túc trong suốt quá trình dàn dựng. Gần đây, Blue is the warmest colour - bộ phim mới nhất thắng giải Cành cọ vàng tại LHP Cannes năm 2013 về đề tài đồng tính nữ của Pháp bị “cáo buộc” có màu sắc chính trị vì ra mắt đúng vào thời điểm vừa diễn ra cuộc biểu tình của 150.000 người tại Paris nhằm phản đối việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới đang trào dâng.
Ở Xu hướng thứ ba các đạo diễn đã đi sâu vào việc thể nghiệm những góc khuất thẳm sâu trong nội tâm con người, những tình yêu đồng tính đầy chân thành, cảm động. Nhắc đến xu hướng thứ ba này, không thể không kể đến đạo diễn Trần Khải Ca (Trung Quốc), Vương Gia Vệ (Hồng Kông) và Lý An (Đài Loan). Cả ba đạo diễn tài năng này đều lần lượt trình làng những tác phẩm kinh điển về đồng tính nam: Farewell My Concubine, Happy Together và Brokeback Mountain. Dĩ nhiên, trong từng tác phẩm cách thức chuyển tải, thái độ ứng xử với đề tài đã kiến tạo nên những diễn ngôn khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung cả ba vị đạo diễn này đều khai triển, xây dựng diễn ngôn theo hướng tâm lý, tình cảm. Đây cũng là một trong nhiều chiều hướng khai thác khá thành công. Lý An - đạo diễn thuộc thế hệ Làn sóng mới thứ 2 của điện ảnh Đài Loan đã góp phần vào dòng chảy phim đồng tính nam hai tác phẩm với sự ngẫu hứng khác nhau về phong cách. Nếu như Brokeback Mountain là kể về một tình yêu buồn, thấm đẫm bi kịch thì câu chuyện The Wedding Banquet lại mang một không khí thoải mái, dễ chịu. Hai bộ phim với hai diễn ngôn khác nhau được quy chiếu từ cùng một hướng tiếp cận nhưng lại khác nhau về thái độ, cách ứng xử của chính đạo diễn đối với vấn đề. Diễn ngôn của Lý An qua bộ phim The Wedding Banquet là: cho dù nền văn hóa Á Đông, dẫu có kỷ luật khuôn phép đến đâu, thì cuối cùng cuộc sống vẫn phải do ta quyết định chứ không phải do những yếu tố văn hóa hay gia đình.
![]() |
Phim Brokeback Mountain |
![]() |
Phim The Wedding Banquet |
![]() |
Phim Monster |
Một “góc khuất” khác cũng thường được các đạo diễn tiếp cận ở mức độ khốc liệt, dữ dằn hơn, thường để lại cảm xúc đắng đót, xót xa về thân phận và kiếp người. Chuyển thể từ câu chuyện có thật về Aileen Wournos, một trong những nữ sát nhân hàng loạt ở Mỹ, Monster (2003) là một chuỗi những ám ảnh, day dứt miên man. Wournos có một tuổi thơ bất hạnh, khó khăn, bị chà đạp bởi những kẻ nghiện ngập ở Michigan. 13 tuổi, cô đã trở thành gái điếm và đã mang thai. Cô chuyển sang hành nghề mại dâm chuyên nghiệp khi đến Florida và đối tượng phục vụ chính là những gã lái xe tải. Câu chuyện tập trung trong khoảng thời gian 9 tháng từ 1989 đến 1990 - thời điểm Wuornos có mối quan hệ đồng giới với cô gái trẻ Selby. Và kể từ lúc đó, để có tiền trang trải cho cuộc sống mới với tình nhân, cô đã bắt đầu giết những khách hàng của mình mà không phải bán dâm. Kết cục tử hình - cái án cao nhất mà Wuornos lĩnh thật xứng đáng với tội trạng của cô. Các vị quan tòa công lý đã không sai khi tuyên phạt nhưng liệu có tòa án lương tâm nào đứng ra biện hộ, thanh trừng những kẻ đã bôi đen cuộc đời cô khi chỉ mới 13 tuổi? Bộ phim không chỉ đề cập đến những vấn nạn nóng bỏng, mà còn chất chứa nhiều suy ngẫm về tình người.
Chúng tôi ý thức được việc chỉ ra sự trình hiện của đề tài đồng tính trong lịch sử điện ảnh và khái quát các xu hướng tiếp cận trong hai thập niên gần đây, chỉ mang tính chất gợi mở, còn hết sức giản lược. Bởi, thực tế, mảng điện ảnh đồng tính rất phong phú, sinh động nên thiết nghĩ mọi tham vọng nắm bắt, miêu tả một cách đầy đủ, toàn diện sẽ gặp phải nhiều khó khăn. Tuy nhiên, có một thực tế, đó là cái nhìn, quan điểm xã hội đã dần dần cởi mở hơn. Trong điện ảnh, điều này không chỉ được hiển hiện thông qua số lượng ngày càng lớn các tác phẩm, mà đặc biệt ở sự xuất hiện một cách nở rộ, trào dâng các liên hoan phim (LHP) đồng tính(4) và những giải thưởng, đề cử danh giá tại các LHP lớn nhất hành tinh như: Venice, Berlin, Oscar, Cannes(5)… Chúng tôi đồng ý với quan điểm: “Không ai được quyền chọn lựa giới tính của mình khi sinh ra, nhưng người ta được lựa chọn cách sống với giới tính mà mình đang có”(6)… Thiết nghĩ, vấn đề này, rất cần/cần hơn nữa sự đồng cảm, chia sẻ từ những đạo diễn và khán giả để vấn đề đồng tính trên điện ảnh nói riêng và các loại hình nghệ thuật nói chung không-còn-đơn-giản-chỉ-là-“sự xúc phạm con người”.
L.Q.H
(SHSDB22/09-2016)
---------------
(1) Bộ luật Hays (The Motion Picture Production Code) được ban hành vào tháng 3 năm 1930 bởi các hãng phim lớn ở Mỹ, thực thi từ năm 1934 và hủy bỏ năm 1968) đề ra những nguyên tắc chỉ đạo trong việc kiểm duyệt, sản xuất phim. Bộ luật như một động thái đối phó với các vụ bê bối ma túy, tình dục bừa bãi. Cụ thể, bộ luật được thành lập dựa trên 3 nguyên tắc chung: Các bộ phim được sản xuất không hạ thấp, vi phạm các nguyên tắc tiêu chuẩn đạo đức của người xem, không được lôi kéo, dẫn dụ sự cảm thông của khán giả vào tội phạm, tội ác, hành vi sai trái; Những tiêu chuẩn của cuộc sống, những chủ đề thiết yếu của phim ảnh và giải trí sẽ được trình chiếu; Luật pháp, tự nhiên, con người không được nhạo báng.
(2) Điều luật 175 quy định: Quan hệ đồng giới, dù nam hay nữ đều bị tống vào tù và chờ xét xử, bị tước quyền công dân mãi mãi. Điều luật 175 này còn tồn tại trong luật pháp của Đức đến tận những năm đầu của thế kỷ thứ 20 mới được bãi bỏ sau cuộc đấu tranh bạo lực của người đồng tính.
(3) Cách mạng tình dục, chỉ cuộc cách mạng tình dục diễn ra ở Phương Tây trong những năm thập niên 1960 và 1970. Là giai đoạn công khai về tình yêu trước và sau hôn nhân, sự mãn nguyện về thể xác hơn là sự ràng buộc bởi các nghĩa vụ, trách nhiệm đạo đức, tinh thần. Nhưng virut AIDS xuất hiện vào năm 1980 đã giáng cú đòn choáng váng vào thức nhận về tình yêu tự do và cách mạng tình dục, người ta có xu hướng tìm/thực hành/ hướng đến trở lại các giá trị đạo đức gia đình bền vững và tình dục truyền thống. (Theo Wikipedia).
(4) Một số LHP đồng tính tiêu biểu như: LHP Melbourne (tính đến năm 2014 đã tròn 24 tuổi) và LHP Brisbane tại Úc, LHP Kahish tại Ấn Độ, LHP đồng tính Reeling, LHP đồng tính nam và nữ tại Hong Kong…
(5) Năm 1969, Midnight Cowboy (đạo diễn John Schlesinger) được 7 đề cử Oscar và đoạt 3 giải quan trọng: Phim, Đạo diễn và Kịch bản xuất sắc nhất. Năm 1993, Philadelphia (Jonnathan Demme) đoạt 2 giải thưởng Oscar, 11 giải thưởng cùng 14 đề cử tại các LHP khác. Năm 2005, Brokeback Mountain (Lý An) vinh danh với 3 giải thưởng Oscar, 97 giải thưởng và 67 đề cử tại các LHP khác… Ngoài ra còn rất nhiều các bộ phim khác đoạt giải mà chúng tôi chưa thể liệt kê hết được.
(6) Câu thoại trong bộ phim đồng tính Việt Nam gây nhiều tiếng vang tích cực Hotboy nổi loạn, câu chuyện về thằng Cười, cô gái điếm và con vịt (đạo diễn Vũ Ngọc Đãng, 2011).
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.
ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.
NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.