Một cuộc quay về...

08:32 09/02/2010
PHAN CHÍNSau khi làm tròn vai một nhà chính trị, không giống như nhiều người khác, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rời Thủ đô Hà Nội về Huế sinh sống.

Với một người nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, chắc hẳn ông có đầy đủ tư cách và điều kiện để trở về bằng một chuyên xa hoặc trên khoang VIP của một chiếc máy bay hạng sang nhất. Nhưng trong sự hình dung của riêng mình, tôi thật sự không muốn và không nghĩ Nguyễn Khoa Điềm về Huế bằng những phương tiện ấy, mà là bằng một chuyến bay phiêu linh, tự ông bay trên đôi cánh thi ca kiêu hãnh, lộng lẫy và lãng mạn. Hoặc đẹp hơn, đúng với căn cốt nhà thơ nói chung hơn, tác giả của những “Đất ngoại ô”, “Mặt đường khát vọng”, “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” vang bóng một thời tự mình “trôi” về Huế, trên dòng chảy suy nghiệm day dứt.

Đặt mình trên con nước, đầu hướng về biển, anh trôi đi
Cùng hình bóng các đền đài, những cạm bẫy của thời gian, nước mắt  người đã chết
Anh trôi đi cùng phù du phiêu sinh vật, những tiếng chuông không ngày về
Những ngọn cỏ khô không nguồn gốc, những người mẹ đắm đò, những câu mái nhì mất tích
Anh trôi đi với trận bão năm Thìn, nhịp cầu bị đánh sập năm Thân
Những cây bèo tím
                          (Sông Hương)

Từ góc nhìn thi ca và bằng sự kính trọng trước một người đã tạc dựng những “Mặt đường khát vọng” biết thôi thúc, dẫn đường và nhóm lửa trong lòng bao thế hệ, tôi thật sự cảm kích và tin rằng cái sự “trôi đi” trong nặng trĩu những day dứt ấy của Nguyễn Khoa Điềm là có thật. Có một thời gian dài, khi  Nguyễn Khoa Điềm đang là chính khách, muốn gặp ông không dễ, có chăng chỉ là qua những bài thơ thưa thớt và có vẻ ít nhọc lòng. Khi về hẳn với Huế, ông vẫn thường đạp xe đi thăm bạn bè. Và không chỉ một lần, trong ông lại sống dậy những nguyên bản chói sáng của con người thi ca, với bao trải nghiệm đắng đót, với những mạch nghĩ đẫm màu thời gian, với những nhịp thở chậm mà sâu, những ánh nhìn chất chứa hào quang vui buồn bất chấp sự mờ nhòe của thị giác người quá lục tuần.

Tôi trở về thành phố tuổi thơ
Sau bảy trăm cột cây số mải miết
Mỗi sớm mai, cùng với mặt trời
Tôi đạp xe dọc bờ sông
Hút tâm trí đường bơi những con bống cát
                                                (Định vị)

“Đạp xe dọc bờ sông” vào “mỗi sớm mai cùng với mặt trời”, thoạt nhìn là một phong thái nhẹ nhõm, thong dong. Nhưng sau những vòng bánh xe lăn chậm ấy, khi “Hút tâm trí đường bơi những con bống cát”, thì cách đi, cách nhìn, cách nghĩ không còn vậy nữa. Có vẻ như đây là một sự “dò đường”, tìm về với những gì gần gũi nhất, những thứ mà một người đi nhiều, biết nhiều, nếm trải nhiều như Nguyễn Khoa Điềm, đã biết, nhưng có thể đã lỡ quên hoặc có lúc, nhiều lúc, cương vị chính trị cao vời đã không tạo cơ hội cho ông nhớ và nghĩ đến... Nguyễn Khoa Điềm từng biết hát ru những “em Cu Tai”, biết dỗ dành những “chồi người” xua quên khắc nghiệt của chiến tranh để lớn: “Em Cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi/ Em ngủ cho ngoan đừng làm mẹ mỏi...”. Khúc hát ru này, cũng như lời tâm tình có sức khái quát rất cao của ông về đất nước (chương “Đất nước” trong Trường ca “Mặt đường khát vọng”), đã ở lại và nở hoa mùa nối mùa trong lòng triệu triệu con người Việt Nam yêu nước. Nhưng cũng rất khó biết khúc hát ru ấy lắng lại trong lòng nhà thơ được bao lâu. Chỉ biết, phải mấy chục năm sau, sau khi cởi chiếc áo quan trường oai nghiêm, sang trọng nhưng xa cách và vướng víu ra khỏi người, Nguyễn Khoa Điềm mới trở về tìm lại em Cu Tai, trong nỗi nhớ và những câu hỏi day dứt:

Nhớ em lắt lẻo trên vai mẹ
Em có còn không, em Cu Tai?
Ta cõng em đi trọn một đời,
Thơ ta, ta gửi đến bao người
Những lời ru ấy rơi trong núi,
Biết có khi nào em đã nghe?
                        (Trở lại A Lưới)

“Trở về” và kiếm tìm, nhặt nhạnh lại những điều bình thường nhất, dường như Nguyễn Khoa Điềm muốn trả nợ cuộc sống. Cuộc sống hiền lành và thân thuộc. Cuộc sống nhiều niềm vui nhưng cũng lắm nỗi buồn và không ít đắng cay. Và ở đấy, bàn tay bắt đầu run của ông đã chạm vào được những tầng sâu khuất lấp trong tâm hồn; lần tìm và đào bới lại những vỉa chữ đã bị bỏ quên đâu đó. Thơ vì thế lại lên tiếng, bằng những câu chữ giằng xé, thao thức và biết suy tư. Thơ vì thế lại xáo động, nhịp mạch mới, gọn, rắn khỏe và dứt khoát nhưng đôi khi lại như một tiếng thở dài:

Tóc trắng như thời gian thích chữ lên trán
Đày anh về quê nhà
Không thể chạy trốn số phận
                        (Nhặt ghi)

Xáo động ngay cả trong những câu thơ có cảm đề về sự an nhiên:
Có một nhà thơ đi mãi vào cánh đồng buổi chiều
Lởm chởm những gốc rạ sau mùa cấy gặt
Mùi thơm lúa khoai thân thuộc
Nói gì hở tiếng reo cỏ may
Mùa thu vừa trở lại?

                        (Cánh đồng buổi chiều)

Xáo động, chao chát, đầy trăn trở ngay trong những khoảnh khắc mà Nguyễn Khoa Điềm gọi là “Cõi lặng”:
Cõi lặng. Anh soi thấy mặt mình
Với nỗi buồn trong sạch.
Cõi lặng. Không tiếng động nào khác
Tiếng đập trái tim anh
                          (Cõi lặng)

Hàm lượng cảm xúc hay sự tỏa cảm ở nhiều bài thơ viết sau năm 2000 của Nguyễn Khoa Điềm không đủ sức vọng động đến cả một thế hệ như với “Mặt đường khát vọng”. Nhưng bù lại, đa số chúng riết róng, bùng vỡ, hun hút và rất đời. Nhiều bài gần như là “tuyên ngôn” cho sự tái khởi động, hay chính xác hơn là cho khởi đầu của một hành trình thi ca mới, khi “nhà thơ đi mãi vào cánh đồng buổi chiều”. Chúng có đủ sự ngọt ngào và quyết liệt, tuy không liền mạch nhưng gần như là sự tiếp nối của một tâm thế sáng tạo mạnh mẽ, đầy khát vọng và cũng rất lãng mạn của một Nguyễn Khoa Điềm lừng lững trên thi đài đất nước một thời.

Không cách nào khác
Dẫu bị chặn hết mọi nẻo về
Anh vẫn hi vọng vào lòng tốt -
Lòng tốt của anh, lòng tốt mọi người
Để đứng cao hơn cái chết

                        (Hy vọng 2)

“Trở về” và khi đã thật sự “chia tay với điện thoại để bàn,/ Cạc vi-dit, nắm đấm mi-crô/ Tự do lên mạng với đời sống, ăn ngủ với bụi đường/ Một mình một ba-lô và xe đạp (Bây giờ là lúc), trong những phút tĩnh lặng của riêng mình, Nguyễn Khoa Điềm đã có điều kiện để nhận ra rõ hơn những khúc cua ngặt trên đường đời; thu vào mắt những điều hiển hiện ngay trong tầm mắt mà có lúc ông không thể nào thấy được. Cuộc sống ở rất gần bên ta, thật giản đơn, thật ấm áp và cũng thật cay đắng.

Chúng ta vẫn bưng bát cơm trắng mỗi ngày
Thật đơn giản, hiển nhiên, như hơi thở
Không còn nhớ có bao nhiêu giọt mồ hôi trên mặt ruộng
Bao nhiêu bùn, bao nhiêu khổ đau
Khi mồ hôi trở nên quá rẻ
Kẻ ranh ma trở nên quá giàu
                        (Cánh đồng buổi chiều)

Khi Nguyễn Khoa Điềm thật sự “trở về” với Huế và với bản nguyên thi ca, thật may, con mắt sắc lạnh, thản nhiên của chính khách đã biết nhường chỗ cho con mắt tri cảm, biết chia sẻ của thi nhân. Ánh mắt của tuổi già có thể yếu đi, mờ nhòe bởi áng mây thời gian. Nhưng hồi quang của chúng vẫn đủ để nhận diện bao điều tưởng chừng ở rất xa.

Mắt mũi ngày càng kém
Chữ nghĩa rậm rịt điều cao xa
Bao giờ, nơi nào, anh đọc được mình
Qua nỗi đau nhân loại?
                              (Những quyển sách)

Và dù ánh mắt tuổi già có bị mờ nhòe, nhưng cái nhìn ngẫm ngợi, bắt rễ từ tâm hồn và xuyên suốt qua những buồn vui phận người thì trở nên tinh anh hơn, thấu tận hơn. Cái nhìn khi ấy trở nên điềm đạm, sắc lẹm nhưng cũng không kém phần thăm thẳm và day dứt.

Nhiều khi đá dạy ta mềm mỏng,
Sự tàn nhẫn nhắc ta điều lành.
Nỗi buồn đánh thức hi vọng

Giữa thế giới không nhiều may mắn
Ta học cách vừa lòng với mình
Chia sẻ sự bình yên của cỏ
                        (Hy vọng)

Sẽ rất khó để nói cho đủ, cho đúng hết những được - mất của một đời người. Nhưng để nói về sự hẫng hụt thì hình như có thể. Nguyễn Khoa Điềm biết rất rõ mình đang ở quãng nào của phía bên kia con dốc đời người và cũng rất có ý thức khi dọn sẵn cho mình tâm thế sống. Nhưng rồi một cách vô tình, những câu thơ lại dội lên, khi thảng thốt, lúc xót xa. Thế giới mà ông đang mải miết đi tới - cánh đồng buổi chiều, thanh khiết, bình yên lắm nhưng cũng đầy tiếc nuối:

Những lo âu chờ đợi cũng đi qua
Điều hay dở đã thuộc ngày hôm trước
giấc ngủ của người trong cuộc
Đã nhẹ nhàng hơn
Nửa đêm tiếng mưa xa
chợt gọi anh về
Vùng yên lặng những chập chờn quên lãng
Cũng vậy thôi, chẳng có gì hơn
Điều được mất
Ngày đi qua, quãng đường đã bước
Hăm hở lo toan, cay đắng vụng về
chỉ còn trống vắng đêm thâu
                    (Sau ngày hội)

Nguyễn Khoa Điềm “trở về” vì ông đến cái tuổi phải “về”. Một cuộc hồi hương hợp cốt cách phương Đông và hơn thế, còn có cả những cuộc “hồi tâm” nhiều cung bậc và nhiều tâm trạng. Khi những ám ảnh về lẽ sống chưa hết thao thức thì đã thấy những ám ảnh tuổi tác ập đến.

Ở tuổi 63
Bánh xe đạp không tròn nữa
Chỉ một hòn đá vô tình cũng đủ ngã lăn chiêng
Ở tuổi 63
Các cô gái đều lẫn vào mây trắng
                        (Ở tuổi 63)

Không phải những nhan sắc của thì hiện tại (và có thể của cả thì tương lai) “đều lẫn vào mây trắng” mà là chính nhà thơ đã hóa thân vào mây trắng.  Trong không gian lãng đãng, xa xăm ấy của đời người, một cuộc “trở về” nữa lại được khai mở, hối hả hơn, thao thiết hơn.

Có một chàng trai sáu mươi tuổi đời
Mỗi sớm mùa hè chàng đến tắm dưới bến đá chùa Thiên Mụ,
Huýt sáo một điệu boléro dịu dàng qua cửa Thượng Tứ,
Ném một cái nhìn xa vời vào làn nước sông Hương,
Lơ đãng như sương mù trên Kim Phụng
                               (Có một chàng trai)

Thơ Nguyễn Khoa Điềm sau năm 2000 thật sự là thơ - của - sự - trở - về!

P.C
(252/02-2010)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?