Một chùm thơ Tuy Lí Vương

09:17 01/03/2010
PHAN VĂN CÁCTuy Lí Vương Nguyễn Miên Trinh (1820- 1897) là con thứ 11 vua Minh Mệnh triều Nguyễn, tự là Khôn Chương, lại có tự là Quý Trọng, hiệu là Tĩnh Phố (tên ngôi vườn ông ở) lại có hiệu là Vi Dã. Tuy Lí Vương là tước phong cuối cùng của ông (trước đó từng có tước Tuy Quốc công năm 19 tuổi).

Thi hào Tuy Lý Vương - Ảnh: donghuongtth.com

Năm 1839, được cử trông nom trường Tôn học đường và được nổi danh thơ văn ngang với Tùng Thiện Vương Nguyễn Miên Thẩm, người anh kề sát ông (con thứ 10 của Minh Mệnh)

Bình sinh ông yêu thích sách vở và thơ văn. Thơ văn của ông được tập hợp trong Vi Dã hợp tập, có lời tựa của Nguyễn Đức Đạt, và của sứ thần Tiến sĩ nhà Thanh Vương Tiên Khiêm, in năm Tự Đức Ât Hợi (1875). Quyển thủ có 3 bức chân dung tác giả do Tôn Ưng Ân vẽ bằng bút lông, lời vua ban khen, 2 lời tựa và lời bình luận của các nhà thơ đề tặng của người Trung Hoa, Nhật Bản. Thơ có 6 tập: Thi 1 do Hồng Nhung và Hồng Nhược hiệu đính, Thi 2 do Hồng Phiên và Hồng Sâm hiệu đính, Thi 3 do Hồng Thiết và Hồng Tụy hiệu đính, Thi 4 do Hồng Tô và Hồng Minh hiệu đính, Thi 5 do Hồng Côn và Hồng Tảo hiệu đính, Thi 6 do Hồng Huân và Hồng Bồng hiệu đính. Văn có 5 tập: Văn 1 do Hồng Nhung và Hồng Nhược hiệu đính, Văn 2 do Hồng Tu và Hồng Thuật hiệu đính, Văn 3 do Hồng Ngải và Hồng Cát hiệu đính, Văn 4 do Hồng Thị và Hồng Trứ hiệu đính, Văn 5 do Hồng Vu, Hồng Trứ và Hồng Thương hiệu đính (những người hiệu đính đều là con của tác giả, công việc hiệu đính thực chất là thu thập, chỉnh lí câu chữ sắp xếp thứ tự.

Ngoài ra còn có Tuy Quốc công thi tập gồm 96 trang chép tay khổ 22,2 x 13,7 (132 bài thơ, ca... đề vịnh xướng họa, viếng tang, tiễn biệt bạn bè...)

Thơ có khoảng bảy trăm bài gồm thơ luật, ca, từ, hành... với đề tài vịnh danh lam thắng cảnh của đất nước như chùa Thiên Mụ, chùa Đồng Thiên, núi Ngũ Hành, các hiện tượng thiên nhiên như mưa, nắng, nhật thực..., thời tiết, chim muông, các ngày Tết Nguyên đán, Trùng cửu, Đoan ngọ, các cuộc đi chơi núi, chơi chùa, chơi thuyền. Một số bài vịnh các nhân vật lịch sử Trung Hoa như An Anh, Hán Cao Tổ, Nhạc Phi, Gia Cát Lượng...

Văn của ông cũng rất có giá trị. Các bài kí như Tĩnh Phố kí, các bài phú về cây lau, cây trúc, về duyệt tập các thế trận thủy bộ ở Thuận An đều rất giàu chất văn. Ông đã viết rất nhiều Tựa, Bạt cho các nhà thơ, nhà văn lớn như Thương Sơn thi tập tự, Kiến Thụy Công thi tập tự. Với Ngự chế diễn Luận ngữ ca của Tự Đức, ông có bài bạt đáng giá rằng: “ Quỳnh âm bảo tứ, diễn dịch tinh tường, luật lã khanh tương, chỉ nghĩa giản quát, khải cẩn tòng lai ca từ gia chi sở vị mộng kiến, thực cổ kim tiên sớ gia diệc vạn bất khả cập” (Tiếng ngọc lời báu, diễn dịch tinh tường, nhạc điệu giòn giã, ý nghĩa gọn rõ đầy đủ, chẳng những là các nhà làm ca từ trước kia chưa từng mơ thấy, mà quả là các nhà chú giải tiên sớ xưa nay cũng hoàn toàn không thể theo kịp). Ngoài ra, như Thi từ hợp nhạc sớ, Luận thi trát tử, Dữ Trọng Cung luận điền từ thư, Dữ Trọng Cung luận thi thư, Dữ Trọng Cung ước trị kinh thư (Trọng Cung là con thứ 15 của Minh Mệnh)... đều có ý nghĩa về lí luận văn học và cả về nghiên cứu Nho học nói chung.

Thiết nghĩ hai vế đối lâu nay truyền tụng “ Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán, Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường “ tuy có phần khoa trương, song không phải hoàn toàn vô căn cứ. Và các chữ “văn”, “ thi” trong đó đều hàm ý thơ văn nói chung và cả bốn vị đều là những “thần”, những “thánh” trên thi đàn, văn đàn thời Nguyễn.

Đặc biệt tập Văn 5 có Niên phả của Miên Trinh do ông tự lập từ khi sinh ra ở giờ Canh Tí, ngày Đinh Mùi 19, tháng Đinh sửu 12, năm Kỉ Mão Gia Long 18, cho đến năm ông 70 tuổi. Thơ văn ông cho đến nay chưa được giới thiệu. Nhưng tiến sĩ Vương Tiên Khiêm nhà Thanh rất khen thơ ông.

Nhà thơ hoàng tộc ấy gần gũi với thiên nhiên, với nông thôn Việt Nam một cách hồn nhiên và đáng yêu biết chừng nào. Không chỉ là đề tài: một chú bé chăn trâu, một chiếc xe cút kít chở đất, một ngôi chùa trên núi dưới trăng, một làng chài đêm thu, một vầng trăng đêm mười bốn, một đêm khuya thức dậy trên hồ, một vách nhà người dân sơn cước,cho đến một buổi leo Ngũ Hành Sơn... Hồn thơ ấy thật tinh tế, nhạy cảm. Phải đồng cảm, hơn thế, phải đặt mình vào thế giới mục đồng mới có được những rung động trước những nét hiện thực tinh vi để hạ được những câu thơ cực kì bình dị mà như reo lên vì hân hoan:

            Nghé con uống suối xuyên rừng,
            Con trâu đem thiến mài sừng đá khe
            (
Xuyên lâm thanh độc ẩm khê lưu,
            Ô kiên ma giác khê biên thạch.)
            Mục đồng từ.

và:

            Lưng trâu nắng tắt trong mơ.
            Bờ tre tiếng sáo vẳng đưa chiều về.
            (Mộng hồi ngưu bối tịch dương trầm,
            Trúc ngoại nhất thanh quy địch vãn.)
             Mục đồng từ.

“ Bài hát chiếc xe chở đất” như viết trên nền nhạc lọc cọc gập ghềnh của chiếc xe cút kít:

            Lọc cọc lọc cọc,
            Đất nhiều gãy trục.
            Chẳng sợ gãy trục,
            Chỉ lo đất ục.
            (
Lịch lộc lịch lộc
            Thổ đa chiết trục.
            Bất úy chiết trục,
            Duy khưng thổ phúc.)
            Thổ xa dao.

Nhưng đáng quý hơn là thái độ trân trọng của nhà thơ đối với người lao động, người phu xe, mà ông cảm nhận được lòng tự trọng, khi nhà thơ để anh ta tự nhủ “ hãy cẩn thận chớ chậm trễ để quan trên quở mắng” vì “ ta cũng là con cha con mẹ, là bề tôi của đức vua” (không khác gì quan trên!)

Nhà thơ nói nhiều đến Phật, đến nhà chùa. Qua chùa Phúc Tuệ, ông tặng sa môn Chân Tâm một bài ngũ ngôn tỏ ý khâm phục và ao ước được lánh vào Thiền, chỉ e không biết chiếc giường nhà tăng của Chân Tâm có chịu để cho ông cùng đến nằm nghe tiếng suối trong rừng trúc:

            Giường tu có để ta cùng
            Đến nghe tiếng suối trong rừng trúc chăng?
            Khẳng hứa đồng tăng tháp
            Lai thinh trúc lí tuyền?
            (Quá Phúc Tuệ tự tặng sa môn Chân Tâm)

Ông từng “ cùng ao ước về cõi Hoa sen, ai bước lên được Bát Nhã” (Cộng liện Liên hoa quốc, Thùy đăng Bát Nhã thuyền?. (Dữ đồng nhân sơn tự bộ nguyệt), và ông cho rằng “ hoa sen của Bạch liên xã khéo hợp với túc duyên” của mình (Bạch xã liên hoa khế túc duyên- Hồ thượng dạ hưng thị chư đồng du)

Song thật ra, hồn thơ ấy vẫn nặng nỗi yêu đời: “ Tỉnh rượu ra, đêm nghe sóng đổ xuống gối nằm. Đi câu về, mùa thu thường khiến trăng đi theo thuyền”

            Tửu tỉnh dạ văn đào lạc chẩm,
            Điếu quy thu khiển nguyệt tùy thuyền
                       
(Hồ thượng dạ hưng thị chư đồng du)

và:

            Nắng quái đã xuống dưới thung lũng
            Khói sáng còn sáng ở lưng chừng núi
            Cửa sài vây màu tre xanh,
            Lối đi ghép đá dẫn vào tiếng thông reo.
           
(Phản chiếu hạ lâm cốc
            Yên hà bán lĩnh minh
            Sài môn vi trúc sắc
            Thạch kính nhập tùng thanh
            (Đề sơn nhân bích)

Bởi yêu đời nên ở đâu nhà thơ cũng phát hiện ra những nét đẹp lôi cuốn như vậy, ngay trong những cảnh quen thuộc bình thường nhất. Toàn bài Đề sơn nhân bích là như vậy:

            Dưới thung, nắng quái tắt,
            Lưng núi, sáng mây hồng.
            Cửa sài vây sắc trúc,
            Đường đá gợi reo tùng.
            Giữ khách, hiên tranh vắng,
            Pha trà, nước giếng trong
            Đối cảnh càng tương đắc
            Cổ nhân, thêm hiểu lòng.

Và ta hãy hình dung cảnh các thiếu nữ giặt áo bên hồ:

            Má hồng son phấn đi vào hoa
            Bướm bay vờn trên xiêm áo.
           
(Hồng trang nhập hoa lí,
            Hồ điệp loạn y thường.
                                    (Nam Hồ)

Ta thấm thía ý xuân lai láng của nhà thơ khi ông hạ những câu:

            Người áo đỏ đứng tựa lan can ngọc quanh co uốn khúc
            Làm nao lòng nát dạ kẻ vương tôn trên lối đi màu tím
            (
Thiếu sam nhân ỷ châu lan khúc
            Mang sát vương tôn tử mạch đầu.
                                    (Xuân thành khúc)

Và ta chợt thấy ông vượt lên thời gian để thật gần gũi với chúng ta hôm nay, sau ông một thế kỉ rưỡi.

Ở một chiều sâu thẳm khác, nhà thơ nói về nợ nước, về chí trai thật say sưa và hào hùng. Nghe tiếng tù và nơi biên tái, ông suy tưởng:

            Ai thổi tù và nơi biên tái,
            Lạnh lẽo thâu đêm, sáng vang dội?
            Anh gươm như nước, râu như tuyết,
            Lão tướng dừng roi, lòng thảm thiết.
            Hung Nô chưa diệt, nhà làm chi!
            Vào lại Ngọc Quan, không hẹn kì!
            Dư âm không dứt, gió nam nổi,
            Chớ để thổi vào khuê phòng vội!

Cả bài Hiểu giác khúc này chỉ vẻn vọn tám câu như vậy nhưng âm hưởng anh hùng ca của nó dường như bất tận. Ta nghe vang vọng tráng âm yêu nước của toàn dân tộc trước họa xâm lăng của đế quốc phương Tây lúc bấy giờ uy hiếp cả giang sơn.

Điều khiến người trích dẫn lúng túng là ở thi tập của nhà thơ “ cánh đồng lau” này, ta luôn luôn dễ dàng bắt gặp những tác phẩm hoàn bích, dù xét trên góc độ “ cấu tứ”, hình thành “ ý tượng”, hay trên khía cạnh từ tảo, nhạc điệu của từng câu chữ, mà bài tứ tuyệt “ Đêm thu ở làng chài” sau đây là một thí dụ:

            Nguyệt lạc ngư ca nhập khúc than,
            Tiêu điều suy liễu ỷ giang can.
            Tiểu chân nhân túc lô hoa lí,
            Bán dạ triều sinh u mộng hàn
                        (Giang thôn thu dạ)

dịch:

            Trăng tàn bãi vắng lắng ngư ca,
            Rặng liễu xác xơ đứng tựa bờ.
            Thuyền nép hoa lau người ghé ngủ,
            Nửa đêm triều dậy lạnh cơn mơ.

Cũng hoàn toàn có thể nói như vậy về nhiều bài khác: Sơn trai tảo khởi, Vô đề, Xuân thành khúc, Xuân nhật ngẫu thành, Đăng Ngũ Hành sơn tác...đều là những viên ngọc có thể sánh đẹp cùng các kiệt tác cổ điển thời Thịnh Đường.

P.V.C
(131/01-2000)    




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ LAI THÚY      Thơ có tuổi và chiêm bao có tích                                  Hàn Mặc Tử

  • NGUYỄN HỒNG TRÂNNữ sĩ Tương Phố tên thật là Đỗ Thị Đàm sinh ngày 14/7/1900, nguyên quán ở xã Bối Khê, tổng Cẩm Khê, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên và mất ngày 8/11/1973 tại Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

  • TRƯỜNG KÝ(“Nụ cười Áp-xara”: Truyện ký của Hà Khánh Linh, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1983)

  • PHẠM PHÚ PHONGChính cái bìa tập truyện ngắn là Sứ giả Việt Hùng do hoạ sĩ Đinh Khắc Thịnh trình bày đã gợi ý tưởng cho tôi viết bài này, sau khi đọc đi đọc lại vài lần tập truyện ngắn gồm có chín truyện của Việt Hùng - chín truyện ngắn anh viết trong vòng hơn mười hai năm, kể từ khi tập truyện ngắn đầu tay Cô gái hoàng hôn (1997, cũng gồm có chín truyện ngắn), ra đời cho đến nay.

  • Ý THIỆNVào ngày 27, 28 tháng 7 năm 2001, tại chùa Từ Đàm - Huế đã diễn ra Lễ kỷ niệm 50 năm ngày Gia đình Phật Hoá Phổ - tổ chức tiền thân của Gia Đình Phật tử Việt Nam, với hơn 3000 đoàn sinh về tham dự. Sự kiện này đã thu hút sự chú ý của nhiều tầng lớp nhân dân thành phố Huế cũng như phật tử khắp nơi trên đất nước.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGNguyễn Đức Tùng: Chào nhà thơ và cô giáo dạy văn Đinh Thị Như Thúy. Được biết chị đang sống và làm việc ở một huyện thuộc tỉnh Đắc Lắc. Chị có tìm thấy cho mình một quê hương ở đó không?

  • ĐINH XUÂN LÂM - VÕ VĂN SẠCHTrong khi khai thác tư liệu về phong trào đấu tranh yêu nước chống xâm lược Pháp hồi cuối thế kỷ XIX của nhân dân ta tại Cục lưu trữ Trung ương, chúng tôi có tìm được hai bài thơ nôm của vua Hàm Nghi ban cho các quân thứ Bắc kỳ.

  • HỒ THẾ HÀKỷ niệm 8 năm ngày mất nhà thơ Tố Hữu (9-12-2002 - 9-12-2010)

  • NGUYỄN NHÃ TIÊNTừ buổi trình làng tập thơ “Bông hồng ngủ quên”, tiếp theo là tập “Nhặt mùi hương trầm đâu đây”, cho đến bây giờ thi phẩm thứ ba của Võ Kim Ngân “Viết lúc sang mùa” vừa mới được Nxb Văn học cấp phép ấn hành tháng 7-2010.

  • THANH THẢO(Đọc “Bán đảo” của Thái Bá Lợi)

  • TRẦN HUYỀN TRÂNNgày 10 - 10, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế và Công ty Văn hóa Phương Nam đã tổ chức buổi tọa đàm về tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường của nhà văn Nguyễn Khắc Phê. Buổi tọa đàm đã thu hút sự quan tâm sâu sắc của các nhà văn, nhà nghiên cứu và đông đảo sinh viên các trường đại học.

  • KIM QUYÊNSau tập thơ Ngày đầu tiên(*), nhà văn Trần Hữu Lục tiếp tục ra mắt bạn đọc tập Góc nhìn văn chương(**) và anh sẽ xuất bản tập truyện ngắn Trần Hữu Lục (tuyển chọn năm 2010). Thật là một mùa bội thu với nhà văn Trần Hữu Lục.

  • HỒNG DIỆU(Nhân đọc Trái tim sinh nở và Bài thơ không năm tháng *)

  • MAI VĂN HOANTôi cố hình dung những tháng ngày nhà văn Hồng Nhu trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh từng gắn bó đã hơn hai mươi năm với bao kỷ niệm vui buồn.

  • KHẢI PHONG“Thơ kỵ nhất viết điều người đã viết! Nhưng biết sao, khi tôi mến sông Cầu…Lòng khẽ nhắc: đừng nói điều đã viết,Sao âm vang cứ mãi gọi: sông Cầu”

  • (Về cuộc thi truyện ngắn dành cho sinh viên Huế do Sông Hương tổ chức)BAN TỔ CHỨC CUỘC THINhằm tạo không khí sáng tác, phát hiện các cây bút trẻ Huế, trong khuôn khổ Chương trình Phát triển Tài năng Trẻ, Tạp chí Sông Hương tổ chức Cuộc thi truyện ngắn dành cho sinh viên đang theo học các trường đại học và cao đẳng ở Huế.

  • LÊ HUỆCuộc thi Truyện ngắn cho sinh viên Huế do tạp chí Sông Hương tổ chức đã thu hút được sự tham gia của rất nhiều các bạn trẻ mang trong mình khát vọng văn chương. Những truyện ngắn dự thi đã cho ta thấy được một vóc dáng mới của các cây bút trẻ Huế hiện nay: phản ánh cuộc sống đương đại từ nhiều góc cạnh bằng bút pháp tinh tế, mới mẻ, giàu trí tuệ và đầy chất thơ. Mười lăm truyện ngắn xuất sắc lọt vào chung khảo đã được tập hợp lại thành ấn phẩm mang tên “Yêu xa xa một phút”.

  • PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.

  • NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?

  • KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.