Một bài thơ thắm tình bằng hữu

14:53 05/09/2008
HỒ TIỂU NGỌCLTS: Nhân dịp kỷ niệm 53 năm Quốc khánh nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài thơ sau đây của tác giả Đoàn Duy Thành. Bài thơ thể hiện tình hữu nghị cao quý của nhân dân hai nước Việt - Trung.

             SONG ĐIỂU TỀ PHI

            Hoàng Oanh phi đáo Bắc Kinh đô,
            Hội ngộ Kim Bằng diệc lạc hồ!
            Đại sự vị thành, hành tiểu sự,
            Song điểu tề phi chí thiện đồ...!
                                          
Đoàn Duy Thành

Bản dịch sang tiếng Việt của tác giả:

            HAI CON CHIM CÙNG BAY

            Hoàng Oanh bay đến Bắc Kinh đô,
            Gặp gỡ Chim Bằng thoả ước tình!
            Việc lớn chưa thành, làm việc nhỏ,
            Vỗ cánh cùng bay đến điểm lành!

Chú thích của tác giả:
Tháng 2 năm 1991, tôi làm Phó đoàn sang Trung Quốc nghiên cứu kinh tế, đồng chí Vũ Oanh - Bí thư Trung ương Đảng làm trưởng đoàn. Trong buổi tiếp đồng chí Vũ Oanh, đồng chí Lý Bằng - Thủ tướng Trung Quốc nói: "Việc bình thường quan hệ ngoại giao giữa hai nước còn cần có thời gian chuẩn bị, trong khi chờ đợi việc lớn, chúng ta hãy làm những việc nhỏ..."
Tôi đã làm bài thơ này tặng hai đồng chí Lý Bằng và Vũ Oanh. Tên hai đồng chí theo âm Hán có nghĩa một loài chim. (Bằng có nghĩa là chim Đại bàng (Eagle), còn Oanh có nghĩa là chim Hoàng Oanh (Phenix) nên tôi lấy tên bài thơ là
Song điểu tề phi.

Lời bình:
Hoàn cảnh sáng tác bài thơ được xác định cụ thể qua trục không gian - thời gian và ý nghĩa thú vị mà tác giả đã chú thích. Sự sâu sắc của bài thơ còn thể hiện ở chỗ: Cuộc hội ngộ của hai nhân vật đều là cán bộ cao cấp của hai nhà nước: Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng và Bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Vũ Oanh. Theo âm Hán, tên của hai nhân vật đều mang tên hai loài chim đẹp, có sức mạnh hiên ngang (chim Oanh hay còn gọi chim Hoàng Oanh hoặc Hoàng Anh, có tiếng hót hay, lông màu vàng; chim Bằng là một loài chim biển bay rất cao và xa, thường ví với người có ước mơ vẫy vùng ngang dọc). Họ gặp nhau để học tập, nghiên cứu bàn việc lớn của hai nước trong tình cảm bằng hữu thiêng liêng, tình bang giao lân quốc trọng đại. Điều đó tự nó đã gợi tứ hấp dẫn, thú vị, giúp tác giả cấu tứ thành tiêu đề bài thơ: Song điểu tề phi, biểu trưng tình đoàn kết, đồng tâm cùng bay đến chân trời của ước mơ và nhân ái tốt đẹp.
Hai câu đầu là niềm vui mừng khôn xiết của hai tâm hồn cách xa nhau nghìn trùng giờ gặp lại nơi thủ đô Bắc Kinh tuyệt đẹp sau bao lâu xa cách:
Hoàng Oanh phi đáo Bắc Kinh đô,
Hội ngộ Kim Bằng diệc lạc hồ!
Niềm vui ấy là có thật, là cảm xúc cao quý. Thảo nào trong sách Luận ngữ, thiên Học nhi, Khổng Tử đã thổ lộ niềm vui của mình khi gặp bạn từ phương xa đến: "Hữu bằng tự viễn phương lai bất diệc lạc hồ!" (Có bạn từ phương xa đến cũng chẳng vui sao!). Tác giả đã mượn tinh thần qua câu nói của Khổng Tử để nói lên tình cảm của Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng và Bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Vũ Oanh khi đến nghiên cứu những vấn đề kinh tế là rất có ý nghĩa. Từ "bất diệc lạc hồ!" của Khổng Tử đến "diệc lạc hồ" của tác giả Đoàn Duy Thành đã có một quá trình học hỏi để thể hiện tâm lý, thời gian - không gian xác định và cụ thể. Niềm vui trong bài thơ Song điểu tề phi không còn mang nghĩa nghi vấn tán thán nữa do đã lược bỏ từ "bất" ("Hữu bằng tự viễn phương lai bất diệc lạc hồ!" có ý nghĩa nghi vấn nhưng hình thức là câu tán thán xác định chứ không phải câu hỏi). Câu thơ "Hội ngộ Kim Bằng diệc lạc hồ!" của Đoàn Duy Thành là một niềm vui sướng có thật được khẳng định, thắm tình "bằng hữu chi giao".
Hai câu sau là ý tưởng trọng tâm của bài thơ tứ tuyệt:
Đại sự vị thành, hành tiểu sự,
Song điểu tề phi chí thiện đồ...!
Hai câu này thể hiện mục đích chính của cuộc hội ngộ. Niềm vui vô hạn khi gặp nhau không thể kéo dài mà liền phải nhường cho những tình cảm và nhiệm vụ nhân nghĩa trọng đại, có lợi cho nhân dân, cho hai nước cả trước mắt và lâu dài. Câu "Song điểu tề phi chí thiện đồ...!" chính là "minh đức" cho những gì cao đẹp dù đó là việc lớn hay việc nhỏ: "Đại sự vị thành, hành tiểu sự". Ở câu này, tác giả đã vận dụng ý tưởng của Tăng Tử, trong sách Đại học để nói lên mục đích của cuộc hội ngộ: "Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện!". (Cái đạo của sách Đại học là ở chỗ làm sáng cái đức sáng của con người, ở chỗ đổi mới người dân, ở chỗ chỉ dừng lại ở điều tốt, điều lành). "Chí thiện đồ" của câu thơ trên chính là mục đích và ý nghĩa trong chuyến sang Trung Quốc của đồng chí Vũ Oanh gặp thủ tướng Lý Bằng.
Bài thơ bốn câu mà ý hiển minh, tình hàm súc bởi nhờ mượn các ý tưởng của Khổng Tử và Tăng Tử như vừa đề cập. Điểm mới của bài thơ còn toát lên ở vẻ đẹp tâm hồn và tính chất cách mạng của nó; ở câu chữ và vần điệu; ở sự vận động và chiều hướng tích cực trong cảm xúc và tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Bản dịch sang tiếng Việt bám chặt nguyên bản nhưng chưa thoả mãn một vài chi tiết. Ví như "diệc lạc hồ!" mà thành "thoả ước tình!" làm mất đi nghĩa "lạc" (vui) hoặc từ "chí thiện đồ...!" mà thành "đến điểm lành!" là hay và hòa âm vận với câu thứ hai nhưng cũng mất đi ý nghĩa sâu xa và rộng lớn của từ "đồ" (con đường) vậy! Thế mới hay dịch là khó lắm thay!
                                                                         H.T.N

(nguồn: TCSH số 164 - 10 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHONG LÊ(Trích - Nhìn từ các mục tiêu của công việc “viết”)

  • NGÔ TỰ LẬPTrong thời gian làm luận án ở École Normale Supérieure de Fontenay/ Saint Cloud , tôi được nghe một câu chuyện thú vị. Trong nhà giam nọ, đám tù khổ sai, sau mỗi ngày lao động như trâu ngựa dưới đòn roi của cai ngục, chỉ có một thú tiêu khiển là nghe một người trong bọn họ kể chuyện tiếu lâm.

  • HỒ THẾ HÀTrần Vàng Sao là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ anh là tiếng nói giàu nhiệt huyết, xuất phát từ đáy lòng, hướng đến mọi người bằng giọng điệu giãi bày, tâm tình, chia sẻ. Anh sáng tác không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm của anh để lại dấu ấn thi pháp độc đáo, đặc biệt ở việc xây dựng tứ thơ và kiến trúc bài thơ, ở hình ảnh và sức liên tưởng bất ngờ.

  • NGUYỄN HUỆ CHI     Trần Thanh Mại (1908-1965) là một nhà văn xứ Huế, một tên tuổi trong giới nghiên cứu, phê bình và sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám. Những cuốn sách ông viết rải rác trong vòng 30 năm như Tuy Lý vương, Hàn Mạc Tử, Trông giòng sông Vị, Tú Xương con người và nhà thơ... đã từng gây được ấn tượng lúc mới ra đời và đến nay vẫn còn nhiều phần giá trị. Những phát hiện của ông về Hồ Xuân Hương, Miên Thẩm đã từng gây xôn xao một thời mà sự tiếp nối của người sau cũng chưa thể nói là đã vượt qua.

  • ĐẶNG TIẾNTừ điển Nghệ Thuật Hát Bội Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Lộc chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 1998, gồm non 700 trang khổ lớn 15x23cm, in đẹp, bìa cứng tổng hợp đầy đủ kiến thức về ngành ca kịch hát bội, còn gọi là hát bộ, hay tuồng, hay tuồng cổ.

  • THÁI DOÃN HIỂUGiữa ngổn ngang những dữ kiện, con số, tiền nong, ngành Ngân hàng Việt vẫn hào hiệp tặng cho thi đàn ra một hồn thơ tinh tế: Nguyễn Ngọc Oánh.Trong thi sĩ Nguyễn Ngọc Oánh có hai con người: một trẻ và một già!

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1989, báo Văn nghệ tổ chức cuộc thi thơ kéo dài trong 2 năm, tôi có gửi 5 bài thơ dự thi. Thơ gửi đi rồi, chưa mong được giải, chỉ mong được in báo Văn nghệ một vài bài vì trước đó tôi cũng đã nhiều lần gửi báo Văn nghệ nhưng chỉ được in một bài thơ “Giọng Nghệ”.

  • TRẦN THÁI HỌC(Nhân đọc Sông Hương phê bình và đối thoại - Nxb văn hoá thông tin - 2003)

  • MAI BÁ ẤNNgoài sáng tác, hơn mười năm trở lại đây, Thanh Thảo còn xuất hiện với tư cách là một người viết tiểu luận - phê bình được bạn đọc rất chú ý bởi giọng văn sắc sảo với những phát hiện độc đáo, mới mẻ. Nhìn chung, phong cách viết tiểu luận-phê bình của Thanh Thảo khá nhất quán nhằm mục đích tìm ra cái hay cái độc đáo của tác phẩm văn học mà không ồn ào tranh luận, không nặng nề về lý thuyết nhưng có độ bền về tính triết lý.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNPhê bình văn học là một hình thái vận động của đời sống văn hóa văn học. Nó không phải là một thể loại văn học. Nó gắn bó huyết mạch tất yếu với vận động sáng tạo - hưởng thụ văn học.

  • HƯƠNG GIANG - PHẠM PHÚ PHONGLịch sử nói chung phán xét những gì đã qua, nhưng lịch sử nghệ thuật thì  phán xét những gì còn lại. (Thái Bá Vân)

  • VÕ TẤN CƯỜNGCon đường của thi ca và cái nhìn của nhà thơ thời hiện đại đang hướng tới tầm cao mới và cả chiều sâu thẳm bí ẩn của vô ngã ẩn khuất dưới bao biến động dữ dội của những thể chế chính trị, giáo lý và các phát minh khoa học kỹ thuật.

  • PHONG ĐIỆPXã hội hoá giải thưởng - và chuyện kiếm tiền “nuôi thơ” thời bão giá

  • CHÂU MINH HÙNGLối viết chỉ là Tự do trong một khoảnh khắc. Nhưng đó là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất của Lịch sử, bởi Lịch sử luôn luôn và trước hết là một lựa chọn và những giới hạn của lựa chọn ấy.                                      (R. Barthes, Độ không của lối viết)

  • TRẦN THIỆN KHANHTích nhân/  dĩ thừa/  hoàng hạc khứThử địa/  không dư/  Hoàng Hạc lâuHoàng hạc/ nhất khứ/  bất phục phảnBạch vân/ thiên tải/ không du du…

  • PHẠM THỊ THÚY VINHThơ Lâm Thị Mỹ Dạ rất giàu hình ảnh. Thế giới hình ảnh trong thơ chị vừa đậm sắc màu hiện thực, ngồn ngộn hơi thở cuộc sống vừa mang tính biểu tượng cao. Điều đó đã thể hiện tài năng và sự khéo léo của nhà thơ, nhằm làm cho những bài thơ của mình không chỉ dừng lại ở những lời thuyết lí khô khan, trừu tượng. Thế giời hình ảnh bao giờ cũng gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc nhiều liên tưởng bất ngờ và thú vị, làm cho lời thơ thêm mượt mà, trong sáng.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   (Tiếp Sông Hương số 11-2008)Bản thể con người chỉ cấu trúc bằng cảm giác và những gì là biến tướng khả dĩ của cảm giác mà không từ bỏ cấu trúc thiên định bao gồm kết cấu thực và kết cấu ảo của cảm giác. Nếu hình dung kết cấu thực là trạng thái mô phỏng thế giới, nghĩa là cái quan hệ hấp dẫn giữa xung động thần kinh não bộ con người với xung động tiếp nhận thế giới, thì chúng ta hình dung được kết cấu ảo chỉ là sản phẩm thuần tuý do xung động nội tại của thần kinh não bộ con người.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.

  • CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.

  • NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.