Một bài thơ bay xa

15:34 12/10/2009
NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

Nhà văn - cán bộ lão thành Nguyễn Khoa Bội Lan - Ảnh: antgct.cand.com.vn

Cán bộ, chiến sĩ ở quân khu cũng như ở các huyện nhanh chóng cùng nhân dân sửa sang lại chùa chiền, trường học, bệnh xá và những nhà sàn của dân bị thời tiết làm hư hỏng, đồng thời cũng cùng với nhân dân chuẩn bị chống càn. Thấy việc đi lại đã dễ dàng, địch ở đồn Mường Mày, Bắc Xoàn do những tên thực dân Pháp chỉ huy sục vào các khu ven rừng tìm các kho lúa, gạo của dân cất giấu, sục vào các làng để bắt bò, heo, gà, vịt. Nhưng đi đến đâu chúng cũng bị dân, quân đánh tơi bời vội vã rút về hang ổ kêu cứu bọn chỉ huy tối cao. Máy bay địch từ Viên Chăn kéo đến Hạ Lào bắn phá và ném bom. Cuộc sống và chiến đấu ở Lào những năm 50 là như vậy đó: mưa lạnh đã khó khăn, nắng ráo cũng không dễ dàng. Thế rồi tết đến các đồng chí ở quân khu quyết định phải tổ chức cho bộ đội những ngày tết chu đáo, vui vẻ bù đắp lại những ngày gian khổ vừa qua.

Nhiều tổ hậu cần đã đi về nhiều thôn xóm mua sắm lương thực, thực  phẩm. Bà con ở nhiều nơi biết bộ đội sắp ăn tết đã mang gạo, nếp, gà, vịt và rượu cần đến góp phần. Một tổ thiện xạ ở cao nguyên Bô Lô Ven cho gánh về hai chú nai vàng hãy còn ngơ ngác. Các bà mẹ hẹn giờ giao thừa sẽ đến làm lễ phục khẻng cột kỹ vào tay để chúc phúc cho mọi người, nam nữ thanh niên sẵn sàng múa lam vông với bộ đội cho tới sáng. Có 5, 6 ông đầu tóc bạc phơ không biết từ đâu hợp thành một nhóm về làm khách quý của hòa thượng chùa Hin Lạp để ăn tết với bộ đội. Các cụ dọa: giờ giao thừa sẽ bắt các ông lớn uống một thứ rượu do các cụ mang về, uống một ly nhỏ thôi cũng say không thấy trời đất.

Trong khi chờ đợi giờ giao thừa, một số khá đông cán bộ, chiến sĩ Lào, Việt họp tại một góc rừng đốt lửa, nướng sắn để khai vị. Hơi ấm của lửa tạo ra làm ấm thêm tấm lòng Lào Việt và mọi người lại nhắc nhau nhớ mãi câu nói của Bác Hồ:

“Việt Lào hai nước chúng ta
Tình sâu hơn nước Hồng Hà Cửu Long”

Chúng tôi kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện, nhắc chuyện xưa để mà nhớ mãi, nêu những việc hiện tại để còn lo âu.

Đang vui tiệc bỗng nhiên anh PhunXiPaXệt khu trưởng khu Hạ Lào cười nói với tôi: “Xin phỏng vấn nhà báo, tại sao chị rời bỏ cố đô hoa lệ Huế đến đây ở trong rừng với chúng tôi, nướng sắn để ăn tết với chúng tôi?”.

Vì sao tình nguyện quân Việt Nam có mặt tại Lào, điều đó không những cán bộ chiến sĩ mà nhân dân Lào ở các vùng kháng chiến đều biết rõ. Bây giờ đem ra nói lại cũng kể quá thừa. Tôi liền nghĩ cách trả lời ngắn gọn.

Tôi nói: Có lẽ vì lúc còn đi học tôi đã bị ảnh hưởng sâu sắc của một bài thơ của cụ Phan Bội Châu làm trong một đêm giao thừa khi cụ còn bị thực dân Pháp giam lỏng tại Huế.

DẬY ! DẬY ! DẬY!
Bên áng một tiếng gà vừa gáy
Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng
Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng
Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng

Sau khi nêu lên tủi nhục, đau khổ của một người dân mất nước, bài thơ kêu gọi:

Thưa các cô, các cậu lại các anh
Trời đã mới, người càng thêm đổi mới
Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội
Ghé vai vào xốc vác cựu giang sơn
Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan
Dây đoàn thể quyết ghe phen thành nghiệp mới
Ai hữu chí từ đây xin gắng gỏi
Cởi lốt xưa mà tu dưỡng lấy tinh thần
Chẳng thèm chơi, chẳng thèm mặc, chẳng thèm ăn
Đúc gan sắt để dời non lấp bể
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ...

Bài thơ làm ở Việt Nam đã lâu bây giờ đem ra đọc tại Lào vẫn gây xúc động cho người nghe. Một anh bộ đội Lào ngồi bên cạnh nói với tôi: “Ngày mai chị nhớ ghi bài thơ vào sổ tay cho em với. Em cho rằng bài thơ ấy không những kêu gọi người Việt Nam mà cả những người bị làm nô lệ trong đó có cả nhân dân Lào“. Tôi hỏi người bạn trẻ: “Thế thì Chăm Niên (tên cậu ta) có dự định tiếp tục chiến đấu đáp ứng lời kêu gọi của bài thơ không?”.

Chăm Niên trả lời: “Em không biết chúng em có làm được việc gì ra trò  không nhưng mà chiến đấu thì nhất định chiến đấu đến cùng và em nghĩ các anh chị cũng vậy thôi“. Thế là một số khá đông chiến sĩ Lào - Việt ngồi gần đó xiết chặt tay nhau như ký vào một bản giao ước.

Chăm Niên là một cán bộ của đại đội PaThét Lào ở Hạ Lào, trẻ, khỏe, năng nổ và dũng cảm. Chăm Niên được ban chỉ huy tin cậy, bạn bè và nhân dân thương yêu. Những lần về họp ở quân khu hễ rảnh rỗi thì kéo theo vài người bạn đến cơ quan báo chí nơi chúng tôi làm việc lặng lẽ ngồi nghe đài, đọc báo. Tưởng rằng nhà báo thì biết nhiều chuyện cho nên mỗi lần thấy chúng tôi rảnh rỗi thì hỏi đủ thứ, địa lý, lịch sử của một số nước trên thế giới và rất thích thú khi nghe kể cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, cuộc chiến đấu oanh liệt của Liên Xô chống phát xít Đức. Vì thế chúng tôi chơi với nhau rất thân.

Năm tháng này qua, năm tháng khác lại qua, do sự nỗ lực của Đảng bộ địa phương, có sự giúp đỡ của Việt Nam, được sự giúp đỡ tận tình của tình nguyện quân, cuộc kháng chiến của Hạ Lào nhanh chóng vững mạnh. Chiến thắng Điện Biên Phủ ở Việt Nam cũng đã ảnh hưởng lớn đến Lào. Thế rồi hiệp định Giơnevơ về Việt Nam đã được ký kết. Tình nguyện quân Việt Nam đã về nước.

Sau một thời gian ở quân đội tôi đã trở về ngành báo chí ở Hà Nội. Một hôm tôi vào bệnh viện Việt Xô hữu nghị, khám bệnh xong tôi đến phòng dược để nhận thuốc. Hôm nay ở đây có đông người ngồi chờ, thấy bệnh nhân đợi lâu, đồng chí dược sĩ bước ra nói: “Xin anh chị em mình chịu khó vì cả phòng phải soạn thuốc cho các bạn Lào đang trên đường về nước”. Nghe nói thế tôi nhìn quanh thì thấy bốn sĩ quan quân đội nhân dân Lào đang ngồi gần cửa sổ. Tôi bước đến định hỏi chuyện. Vừa thấy tôi một anh kêu lớn: “Chị! anh ta đứng lên ôm chặt hai vai tôi hỏi chị có nhớ em không?”. Thấy vẻ hơi ngơ ngác của tôi, anh ta nói: “Em là Chăm Niên đây chị nhớ không?“. Tôi mừng rỡ: ”Chăm Niên thì tôi quên sao được, nhưng đột ngột gặp lại nên tôi chưa nhận ra đó thôi, và bây giờ thì xin nói: tôi rất vui vì gặp lại người bạn thân, rất vui được gặp người chỉ huy anh hùng của tiểu đoàn II anh hùng”.

“Sao chị biết?”, Chăm Niên hỏi.

Tôi trả lời: “Biết quá đi chứ, Chăm Niên quên tôi là nhà báo rồi ư?. Là nhà báo tôi thường xuyên theo dõi tình hình, trong đó có tình hình nước Lào, nơi mà tôi xem như quê hương thứ hai của tôi”. Tôi biết sau hiệp định Giơneve, một số đông cán bộ và chiến sĩ Hạ Lào đã tập kết lên hai tỉnh của Thượng Lào trước sự phản bội của thực dân Pháp và sự can thiệp trắng trợn của đế quốc Mỹ, Cách mạng Lào đã gặp rất nhiều khó khăn. Tôi biết tiểu đoàn II đã phá vòng vây của địch tiếp tục chiến đấu gian khổ nhưng cũng thu được nhiều thành tích vẻ vang. Chấp hành mệnh lệnh của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, tiểu đoàn II đã cho cán bộ vào tận Viên Chăn, dũng cảm, mưu trí vào tận “hang cọp“ đưa một số cán bộ lãnh đạo Cách mạng trong đó có Chủ tịch XuPhaNuVông, phó chủ tịch CòmManĐan, anh PhunXiPaXệt...ra khỏi hoả ngục Phong Kheng, ra khỏi Viên Chăn và đưa về khu an toàn. Chăm Niên thấy đấy, bà con Việt Nam theo dõi chặt chẽ tình hình của nước bạn.

Chăm Niên đứng lặng hồi lâu, và sau khi giới thiệu với tôi các bạn cùng đi hầu hết là ở trong ban chỉ huy của tiểu đoàn II; rồi nói: “Chị cũng nên biết rằng tất cả chúng em đều nhớ bài thơ mà chúng em đọc hôm tết. Hiện nay em đang bị ốm có lẽ sẽ về Hà Nội chữa bệnh ít lâu, bao giờ em về em sẽ tìm chị ngay và sẽ kể cho chị nghe những gì đã xảy ra sau khi chị về nước”.

Tôi tiễn các bạn Lào ra tận xe, một anh nói nhỏ với tôi: “Chăm Niên bị đau gan nặng lắm”.

Tôi nhìn Chăm Niên cũng đang đi bên cạnh tôi gầy gò, nước da xạm đen, chưa bao nhiêu tuổi mà đầu tóc đã lốm đốm bạc, nghẹn ngào không nói được câu nào. Xiết chặt tay Chăm Niên trước khi cậu ta bước lên xe tôi không sao cầm được nước mắt.

Chờ lâu, chờ rất lâu không thấy Chăm Niên trở lại Hà Nội như đã hẹn, tôi lên ban đối ngoại của Đảng để hỏi tình hình và được biết Chăm Niên đã vĩnh viễn ra đi, và XiThon, ThaoTu tiếp tục chỉ huy tiểu đoàn II giữ vững danh hiệu anh hùng cho đơn vị và làm cho đơn vị luôn luôn là đơn vị tin cậy của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.

Sau này tôi được biết thêm trong cuộc chiến đấu ác liệt cuối cùng có sự tích cực góp phần của tiểu đoàn II, quân dân Lào đã đuổi hẳn xâm lược Mỹ và tay sai của chúng ra khỏi Lào. Trong các cuộc chiến đấu ác liệt đó XiThon và ThaoTu cũng đã đem máu nóng của mình góp phần phá tan xích xiềng nô lệ, góp phần mình vào sự nghiệp xây dựng nước Lào vinh quang như ngày hôm nay.

N.K.B.L
(190/12-04)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.