Modigliani - thiên thần buồn

14:59 14/07/2009
ĐINH CƯỜNGViện Bảo tàng Mỹ thuật Luxembourg, Paris vừa chấm dứt cuộc triển lãm qui mô, hàng trăm bức tranh của một họa sĩ lẫy lừng, bi thảm nhất thế kỷ hai mươi: Amedeo Modigliani.

Danh họa Amedeo Modigliani (Ảnh: picturalissime.com)

Triển lãm được mang tên: "Modigliani, L'ange au visage grave", như gợi dậy cái không khí say đắm, trữ tình và đầy u uất của một thiên tài bạc mệnh... Trong suốt bốn tháng (từ 23/10/2002 đến 2/3/2003) đã không ngớt người xem. Ước mong cuộc triển lãm lớn này có dịp sẽ đến Mỹ, như những năm trước được xem Vermeer, Van Gogh, Cézanne...

Một buổi sáng thật tình cờ, một người bạn ông Bạch Thái Quốc, trưởng ban Việt ngữ đài R.F.I tại Paris gọi qua Virginia hẹn phỏng vấn tôi. Nói là nhân xem Modigliani, nhớ đến những tranh thiếu nữ của tôi vẽ ngày trước, cũng hai bàn tay dài, chiếc cổ dài, đôi mắt sương khói...

            "Mắt em xanh đến như mầu khói
            Phơ phất hồng nhan ngọn gió trao"

Người bạn, Đặng Tiến, đã ghi 2 câu thơ của Đinh Hùng khi xem bức chân dung tôi vẽ một thiếu phụ ở Đà Nẵng, năm xưa nào...

Và quả thật vậy, nhớ lại đầu thập niên 1960 ở Sài Gòn, chúng tôi, những họa sĩ trẻ, đang hăng say vẽ, tìm tòi, sáng tạo... Đã tìm thấy ở Chagall, Modigliani, Klee... một không khí hư thực, thơ mộng, gần thẩm mỹ phương Đông. Thời kỳ xanh, với thiếu nữ, ngựa, đồi, và trăng. Bàng bạc khói sương, một tình yêu phơi phới:

            "Trong vườn tôi hoa phù dung đã nở
            ngày rất  hồng và chim hót rất xanh"
                                               
(Nguyễn Xuân Thiệp)

Bức tranh cô gái cổ dài bị Lục Hà cười đầu tiên là "Biển nhớ" theo bản nhạc của Sơn vừa viết xong năm 1963. Cô gái ngồi rủ buồn trước biển, với con dã tràng màu đỏ thắm. Bị mê hoặc lúc nào không hay bởi những chân dung thiếu nữ của Modigliani, với chiếc cổ dài như con thiên nga, mà người họa sĩ đã phát hiện, như tìm được chân lý.

Những năm đầu tiên khi đến Mỹ, có dịp đi các viện bảo tàng mỹ thuật, tôi đều tìm đến phòng có treo tranh Modigliani mà đứng lặng nhìn, xúc động:

            "...như sáng mai nào trong viện bảo tàng
            đứng cạnh những tranh Modigliani
            chất sơn dầu cũ kỹ hàng trăm năm
            như còn ám ảnh ta
            mầu đỏ sậm, mầu vàng chết
            và những đường viền đen run rẩy
            những khoả thân nằm..."
                                    (Cuối Ngày Buồn, thơ Đ.C. 3/90)

Phải chăng, Modigliani, người hoạ sĩ có mái tóc bồng, khuôn mặt u buồn, đôi mắt sâu, dáng cao sang, luôn quấn chiếc foulard màu đỏ sậm, quần velours nâu, xuất hiện ở cái xóm nghệ sĩ nổi tiếng Montmartre hồi đầu thế kỷ hai mươi, nơi tụ họp các họa sĩ tứ xứ kéo đến... Cuộc đời mà tôi được đọc qua nhiều sách. Một cuộc đời bi thảm, ngắn ngủi. Tranh thường vẽ đơn độc một người. Đến Paris năm 22 tuổi, 36 tuổi chết vì bệnh lao tại một nhà thương thí. Làm nhớ Quách Thoại:

            "Thoại ơi Thoại ơi không biết khóc
            nhưng giòng nước mắt ướp mặn môi"
                                               
(Thanh Tâm Tuyền)

Làm nhớ Thạch Lam, cũng chết vì lao phổi năm 33 tuổi tại làng Yên Phụ, ven Hồ Tây - Hà Nội:

            "Chiều mưa bụi đã bay
            à ơ cơn gió ẩm ngày
            sao lòng con ấm những ngày năm xưa"
                                                (Nguyễn Tường Giang)

Ngoài những bài tập và những tranh vẽ khi theo học ở các trường Mỹ thuật Florence, Venice tại Ý, kể từ 1906 cho đến gần lúc cuối đời, có thể Modigliani đã vẽ hàng ngàn bức, từ dessins chì, mực, đến những tranh nhỏ trên giấy bằng màu nước, sơn dầu. Một số xé bỏ, một số thất lạc khi âm thầm dời nơi trú ngụ. Modigliani vẽ rất nhanh, bất cứ lúc nào, ở đâu, trong cơn đói rã, trong cơn ho rũ rượi. Đổi từng dessin lấy rượu uống, chếnh choáng say... nói chuyện văn chương, triết học. Ông mê Neitzsche. Năm ông sinh ra là Neitzsche đã cho in Ainsi parla Zarathustra (1883). Ông còn nói về Oscar Wilde, về Dante... đọc thơ Baudelaire... Đầu óc có khi hoang tưởng về một thế giới xa xăm nào.

Năm 1907, gặp bác sĩ Paul Alexandre, là người mê thích, khách hàng đầu tiên mua tranh ông. Năm kế tiếp ông gởi bày 6 bức tại Salon des Indépendents. Với chất quí phái, trữ tình. Bắt đầu gây huyền thoại. Modigliani được nổi tiếng là họa sĩ có sức thu hút bởi đôi mắt rực lửa, dáng dấp hào hoa... được mấy cô gái giang hồ vây quanh. Nhưng ông đã kính trọng họ chân thật.

            "... một đời em mãi lang thang
            lòng lạnh băng giữa đau thương
            em về đâu hỡi em?
            hãy lau khô giòng nước mắt
            đời gọi em biết bao lần..."
                                               
(lời ca Trịnh Công Sơn)

Khi Modigliani bị đau nặng, kiệt sức, chính những cô gái giang hồ và những người bạn nghệ sĩ nghèo đã góp tiền mua cho ông chiếc vé tàu để về Ý với mẹ, sau 3 năm xa cách. Về lại Livorno, suốt mùa hè năm đó, được mẹ chăm sóc. Sức khoẻ đã hồi phục, Modigliani hăng say vẽ lại. "Người hành khất", còn gọi là "Người hành khất Ở Livorno", bức sơn dầu như lột tả được sự cùng khổ của một người ăn xin mù.

Trở lại Paris, ông mang theo bức tranh này. Vẽ thêm "Người chơi đàn Violoncelle" mà mẫu chính là người nhạc sĩ bất hạnh, nghèo khổ, với cây đàn cũ, sống cạnh phòng ông tại phố Falguière.

Tháng 3/1910, ông bày 6 bức tại Salon des Indépendants, có 2 bức gây xúc động mạnh này. Từ chỗ ở mới, ông kết thân với Brâncusi, nhà điêu khắc người Roumani, qua Paris trước ông 2 năm. Sau này được xem là "nhà điêu khắc quan trọng nhất của thời hiện đại" (Jean Couteau). Năm 1911, Modigliani bày 7 tác phẩm điêu khắc và những tranh nhỏ vẽ bột màu, những dessins, tại xưởng vẽ người bạn: Soura Cardoso. Ông yêu thích Toulouse Lautrec, ngợi ca Douanier Rousseau, Picasso và Cézanne... trước khi gặp Van Dongen, Vlaminck, Soutine...

Năm 1915, ngưng làm điêu khắc, tiếp tục vẽ những bức sơn dầu cỡ lớn: những bức khoả thân tuyệt tác còn để lại đến nay. Trữ tình, mãnh liệt, trên những đường lượn ngọt ngào, giai điệu thần tiên, đôi mắt như không tròng, buồn xa xăm. Chất sơn dầu dày, sẫm, có thể sờ mó đến tận miền xa xôi của xúc cảm.

1914, Thế giới chiến tranh I bắt đầu bùng nổ, cả xóm nghệ sĩ Montmartre, nơi cái nôi được xem là "Trường phái Paris", thất tán, quạnh hiu... Modigliani bắt đầu tìm cảm hứng từ nghệ thuật Châu Phi. Phác thảo vô số hình vẽ để làm tài liệu... Thời gian này, Modigliani đã gặp Beatrice Hastings, một nữ thi sĩ người Anh. Sống với nhau 2 năm, đầy sóng gió. Vẽ nhiều chân dung. Từ năm 1915 đến 1917, Modigliani gặp thêm nhiều người bạn quí, nhà thơ Max Jacob, nhà thơ người Ba Lan Léopold Zborowski, André Salmon, Jean Couteau... Có thể nói, vợ chồng Zborowski là những người bạn đã cưu mang, lo lắng cho Modigliani ân cần nhất. Tìm cách bán tranh, tổ chức bày tranh... Tháng 12 - 1917, Zborowski giúp Modigliani triển lãm tranh tại Galerie Berthe Weil. Lần này bày thêm các bức "khoả thân" lớn, tuyệt đẹp, nhưng lại bị dư luận còn nghiêm khắc lúc bấy giờ chống đối, cảnh sát phải can thiệp, không cho trưng bày trước tủ kính galerie...


Một bức vẽ Jeanne Hébuterne (Ảnh: abcgallery.com)

Mùa hè 1917, Modigliani gặp Jeanne Hébuterne, 19 tuổi, đang học hội hoạ tại Académie Colarossi, trẻ hơn Modigliani 14 tuổi. Mối tình mãnh liệt nẩy nở. Gia đình Hébuterne ngăn cản không được. Hai người tự làm đám cưới, với hai người bạn ký tên làm chứng: Zborowski và Czechowska. Jeanne Hébuterne dáng người thon thả, dịu dàng, trầm tư, Modigliani đã vẽ rất nhiều tác phẩm đặc sắc về nàng, với nhiều tư thế, với tất cả yêu thương... Cũng từ đó, hai kẻ thanh xuân trải qua với nhau một cuộc sống lang thang, nghèo đói khắp phố Paris. Dời từ chỗ ở này đến chỗ ở khác, không có tiền để thuê nơi làm xưởng vẽ. Sống trong "La Ruche", toà nhà xiêu vẹo, đổ nát trên đường Dantzig. Chagall, Kisling, Soutine và nhiều nghệ sĩ nghèo cũng đang ở nơi này.

Trong khi ấy bệnh lao không tha. Ngày trước, khi mới đến Paris, trong những cuộc trao đổi, có người đã tỏ vẻ thương xót, nhưng Modigliani nhất định nói: không, tôi hoàn toàn hạnh phúc. Hạnh phúc vì được vẽ, dù chịu đói, nghèo. Ước muốn của Modigliani là đưa Jeanne Hébuterne về thăm mẹ ở Livorno đã không thực hiện được. Sức khoẻ suy sụp nhanh chóng. Vẫn lang thang một mình với cơn ho rũ rượi, uống rượu càng nhiều hơn.

Cuối năm 1918, Modigliani bắt đầu ho ra máu, vợ chồng Zborowski gom góp được ít tiền, gởi vợ chồng Modigliani về Côtes d' Azur, miền Nam nước Pháp để tịnh dưỡng trong vòng một năm, từ Nice qua Cagnes. Thời gian này có mấy bức nổi tiếng: "Thiếu nữ áo xanh", "Đàn ông với áo choàng xanh", và 4 bức phong cảnh hiếm hoi.

Ngày 29.11.1918 tại nhà bảo sanh Nice, Hébuterne sanh con gái: Jeanne Modigliani, sau này là tác giả cuốn sách đầy đủ, trung thật nhất về người cha: "Modigliani, sans légende" (Jeanne Modigliani mất năm 1984). Tháng 5.1919 vợ chồng Modigliani bồng con trở lại Paris. Thời gian này, tên tuổi ông đã được nhiều người biết đến, có nhiều người tìm mua. Nhưng ngậm ngùi thay, giữa lúc ông cảm nhận gần đến cái chết. Tuần cuối 1.1920, Modigliani nằm liệt giường, sốt cao độ. Bác sĩ ký giấy đưa ông vào nhà thương thí. Sáng hôm sau, 24.1.1920 Modigliani trút hơi thở cuối cùng. Trước khi nhắm mắt còn thều thào: "Cara, cara Italia" như nuối về quê hương nước Ý thân yêu, nuối về Mẹ...

Sáng sớm ngày hôm say, Jeanne Hébuterne, đang có mang đứa thứ hai, nhảy từ lầu 5 nhà cha mẹ, xuống đất tự tử chết theo chồng. Còn gì bi thiết hơn. Người họa sĩ với cuộc tình chung thuỷ này, đã trở nên huyền thoại...

Mộ Modigliani và Jeanne Hébuterne sau đó được nằm chung cùng nhau tại nghĩa trang Père La Chaise ở Paris. Trên tấm đá bia mộ khắc ghi những giòng chữ:

"Amedeo Modigliani, hoạ sĩ, sinh tại Livorno ngày 12.7.1884. Chết tại Paris ngày 24.1.1920. Cái chết đã đến vừa khi ông đạt đến đỉnh danh vọng.

Jeanne Hébuterne, sinh tại Paris ngày 6.4.1898. Chết tại Paris ngày 25.1.1920. Cặp tình nhân này đã chung thuỷ với nhau ngay cả trong cõi chết."


Năm 1921, Zborowski tổ chức một cuộc triển lãm tại Paris để tưởng nhớ Modigliani. Báo chí đã đăng những bài ca ngợi nồng nhiệt. Các nhà sưu tập bắt đầu tìm đến. Trong số này, có bác sĩ Albert C. Barnes, nhà sưu tập người Mỹ ở Pennsylvania, đã mua rất nhiều tranh của Modigliani. Một bộ sưu tập tranh nổi tiếng, như đã thấy các viện bảo tàng bày tranh gần đây, mượn từ bộ sưu tập của gia đình bác sĩ Barnes.

Khi đã chết, cũng như Van Gogh, tên tuổi của Modigliani mới được trọng vọng. Liên tiếp các cuộc triển lãm tranh ông tại Zurich, London, Geneve, New York,... Bắt đầu 1950, các viện bảo tàng lớn ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức... đồng loạt tìm mua tranh Modigliani.

Không được may mắn như Picasso, người bạn cùng thời. "Picasso, tia mặt trời không bao giờ tắt", tựa đề một quyển sách đẹp khi Picasso vừa qua đời (8.4.1973). Picasso đã ở lâu đài, và chết cũng tại lâu đài của mình.

Modigliani đã chết quá trẻ, buồn thảm trong cảnh đói nghèo, cùng cực, không được nhìn thấy cái hạnh phúc lớn lao sau này khi tranh mình thành vô giá. Và có phải như Modigliani đã thấy trước cái chết và sự bội bạc trên trần gian. Trước đó, trong bức thư viết cho người bạn, bác sĩ Paul Alexandre, ngày 6.5.1913, với câu cuối thư: "Le bonheur est un ange au visage grave".

Hạnh phúc là được vẽ tranh, Modigliani luôn khẳng định như vậy. Nhưng phải chăng "Hạnh phúc là một thiên thần mang vẻ mặt sầu muộn".

Đôi mắt muộn sầu trong tranh thiếu nữ của Modigliani còn mãi ám ảnh tôi.

Virginia, 2.2003
Đ.C
(181/03-04)


-----------------------
Sách tham khảo: Modigliani sans légende (Jeanne Modigliani, éd, Grund, 1962); Modigliani, Figures (Jean Dalevèze, éd. B. des Arts, 1971); Modigliani (Christian Pariot, éd. Terrail, 1992); Toute l'oeuvre peinte de Modigliani (Ambrogio Ceroni, éd. Flammarion, 1972); Amedeo Modigliani, La Poésie du regard (Doris Krystof, éd. Taschen, 2000).

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN HUYỀN SÂM

    Ở Pháp, vào mùa thu, người ta gọi là mùa của văn học/ La rentrée littéraire. Đấy là thời điểm mà bạn đọc và báo chí xôn xao về các giải thưởng.

  • NGUYỄN QUANG HÀ  

    Các bạn đi Mỹ về, hầu như ai cũng kể về một công trình độc đáo ở Washington, đó là đài tưởng niệm các chiến binh Mỹ đã tử trận trong chiến tranh Việt Nam. Đài tưởng niệm không phải một tháp cao, mà là một bia đá.

  • HIỆU CONSTANT

    Ra đời và lớn lên tại đất nước Nouvelle-Calédonie, về Việt Nam năm 1960 để sinh sống và học tập, tốt nghiệp trường Nghệ thuật Việt Bắc, khoa diễn viên, sáng tác và đạo diễn, Alain Vũ Hoàng khởi nghiệp bằng nghề đạo diễn những làn múa dân gian và hiện đại nổi tiếng của Việt Nam.

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY

    Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, người Cao Mật, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc, sinh năm 1955.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN
    (Đọc "Thám tử đau buồn" của Viktor Axtaphiev)

    Tiểu thuyết Thám tử đau buồn ở trong số những tác phẩm ưu tú của văn học Liên Xô viết trước Đại hội lần thứ XXVII Đ.C.S.L.X và chứa đựng dự cảm những tư tưởng và tinh thần của Đại hội.

  • LGT: Elie Wiesel được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1986 qua những hoạt động chống lại bạo lực, đàn áp, và kỳ thị chủng tộc. Wiesel sinh năm 1928 tại Romania; ông là người gốc Do Thái.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG

    Núi thiêng Kailas
    Trong dãy Hy Mã Lạp Sơn, tuy không cao như Everest (8.848m) nhưng Kailas (6.714m) là ngọn núi thiêng liêng nhất trong lòng hàng tỷ tín đồ Phật giáo, Indu giáo, Đạo Jains, và Đạo Bon.

  • Nhà vật lý Thiên văn là những người “đọc” ánh sáng trong vũ trụ, lặn lội trong thiên hà để tìm về quá khứ, nhìn vào hiện tại, và đoán định được tương lai của vũ trụ, trong đó có trái đất. Có một người Việt như thế, cực kỳ nổi tiếng trong giới thiên văn học thế giới tên là Trịnh Xuân Thuận.

  • Từ ngày 8 đến 10.3.2012 tới đây, xứ sở thi ca Huế được chọn là nơi gặp mặt các nhà văn Việt Nam và các nhà văn Mỹ nhân Kỷ niệm 20 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao văn học giữa Hội Nhà văn Việt Nam và Trung tâm William Joiner (Mỹ).

  • TÔ NHUẬN VỸ

    (Kỷ niệm 20 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao văn học giữa Hội Nhà văn Việt Nam và Trung tâm William Joiner (Mỹ).

  • Tại Đại hội nhà văn Liên Xô lần VIII, một trong những bài phát biểu được hoan nghênh nhất là của nhà văn Valentin Raxputin. Đáng chú ý là trong bài này, tác giả hầu như không nói gì về nghề văn, mà chỉ đề cập vấn đề bảo vệ môi sinh.

  • L.T.S: Gần đây ở Liên Xô tên tuổi của nhà văn nữ trẻ tuổi Xvet-la-na A-lêch-xi-ê-vich (Svetlana Alexievitch) trở nên quen thuộc và thân thiết với nhiều đối tượng độc giả qua tác phẩm "Chiến tranh không có gương mặt người phụ nữ".

  • ĐỖ HỮU CHÍ

    Tin Ô-Iôp Pan-mơ bị ám sát làm tôi bàng hoàng xúc động không kém như khi nghe tin bà Indira Găng-đi bị ám sát. Chỉ có sự khác nhau, tôi vừa được gặp bà Găng-đi trước đấy mới có vài tháng, còn Ô-lôp Pan-mơ thì tôi đã gặp và nói chuyện cách đây 18 năm.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG

    Hy Lạp là nơi tổ chức Thế Vận hội Olympic đầu tiên - năm 776 tr.CN thì ai cũng biết, nhưng Hy Lạp còn là nơi tổ chức cuộc thi hoa hậu đầu tiên của nhân loại thì, việc này chắc không phải ai cũng hay. Có điều, vì cuộc thi người đẹp ấy bắt nguồn từ động cơ xấu xa, nên đã dẫn đến kết cục cực kỳ bi thảm.

  • MAI KHẮC ỨNG Sang Montreal trốn nắng, nhiều ngày đẹp trời tôi thích đi đó đi đây. Lội bộ mãi rồi cũng chán. Tôi nghĩ ra cách ngao du bằng tàu điện ngầm liền với xe bus.

  • TRẦN KIỀU VÂN Năm 1990, dịp lễ Phục Sinh, cô dẫn chúng tôi đến nghĩa trang thành phố Voronez. Một là để tham quan thêm một nơi rất đẹp và có nhiều ý nghĩa đối với thành phố, hai là để viếng một người Việt Nam nằm tại đây.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG Bút ký Trong hồi ký Living History, Hillary kể gia đình bà có lần đến Grand Canyon cắm trại. Tại đây, ông Bill Clinton nhận xét “Grand Canyon là nơi ngắm hoàng hôn đẹp nhất thế giới”.

  • PHẠM THỊ CÚC Hai vợ chồng ông hàng xóm nhà tôi đều nghỉ hưu. Bà vợ tuổi khoảng sáu mươi, chồng sáu lăm, có hai con. Con gái đầu đã lấy chồng, có hai con, đứa lớn bốn tuổi, đứa bé gần hai tuổi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGBrasil, tuy chỉ xếp thứ năm thế giới về diện tích, thứ sáu thế giới về dân số, nhưng lại sở hữu khu rừng Amazon rộng nhất thế giới, con sông Amazon dài nhất thế giới, vũ điệu Samba nồng nàn nhất thế giới, nhiều bãi biển đẹp nhất thế giới, thứ bóng đá mê li nhất thế giới...

  • TRẦN THIỆN ĐẠONhư mọi người đều biết, Victor Hugo (1802-1885) vừa là nhà thơ trữ tình và châm biếm vừa là kịch tác gia cách tân vừa là nhà văn xã hội Pháp thế kỉ XIX rất ư năng động và sung sức, có nhiều tác phẩm đủ ba thể loại đó để đời.