Minh triết của sang chấn

14:47 27/09/2021

"Việc trên đời, chỉ cần vẫn còn cơ hội sống thì dù liên tiếp gặp thiên tai nhân họa, tạm thời bị ức chế, sớm muộn cũng sẽ có ngày ngẩng cao đầu. Việc cá nhân là vậy, việc gia đình là vậy, việc quốc gia, dân tộc cũng là như thế...".

Nguồn: ITN

Đối mặt với làn sóng thứ 4 nhiều đau thương và mất mát này của đại dịch Covid-19, tôi nghĩ ai trong chúng ta ít nhiều cũng đều trải qua những cơn sang chấn. Với hàng nghìn người có người thân mắc bệnh nặng hoặc qua đời, sự hoảng sợ và nỗi đau chia lìa đó sẽ tích tụ lại để tạo thành một cơn sang chấn lớn, không dễ gì vượt qua được. Trong bộ phim “A Short Film about Love” của đạo diễn Krzysztof Kieslowski mà tôi xem gần đây, có một câu thoại thế này: “Nỗi đau mất đi người thân luôn là nỗi đau lớn nhất, để lại những dư âm dai dẳng nhất”.

Với hàng triệu người mất đi việc làm, mất đi sinh kế, bị phá sản, hoặc thậm chí phải chịu cảnh thiếu lương thực, đói kém vì dịch bệnh, trận sang chấn này cũng sẽ để lại những vết hằn rất sâu, không dễ gì vượt qua được. Ngay cả với một ngôi sao lớn như Meryl Streep, trong một cuộc trả lời phỏng vấn khi nói về hạnh phúc, bà đã trả lời rằng, thứ khiến chúng ta hạnh phúc đều khá đơn giản: Được yêu thương, có một đời sống chăn gối viên mãn và có thức ăn. Những thứ khác như quyền lực, sự ảnh hưởng và sức mạnh có thể có những vai trò quan trọng đối với một số người, nhưng với hầu hết người khác, điều khiến cuộc sống hạnh phúc rất đơn giản là có thức ăn, có nơi ở và có những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Bao nhiêu triệu người, triệu gia đình đã mất đi niềm hạnh phúc đơn giản đó vì trận đại dịch thế kỷ này?

Và với hàng triệu người khác, như chúng ta, may mắn vẫn an toàn và vẫn có đủ lương thực, vẫn có nơi trú ngụ nhưng chắc chắn cũng phải trải qua những trận sang chấn vì bị ức chế tinh thần, vì bị “cầm tù” trong bốn bức tường và đầy rẫy những thông tin độc hại, tiêu cực khắp nơi…

Những cơn sang chấn lớn, nhỏ đó gộp lại, tạo thành một trận sang chấn tập thể. Và trận sang chấn tập thể này sẽ tạo thành một vết hằn trong vỏ não. Ngay cả khi vượt qua được trận đại dịch này và trở về với cuộc sống bình thường mới, tôi nghĩ hầu hết chúng ta không dễ gì quên được nó. 

Vậy thì làm thế nào để vượt qua được cơn sang chấn này mà ta vẫn bình tâm để sống tiếp, làm thế nào để ta học được những bài học sinh tồn (cả thể chất lẫn tinh thần) từ dịch bệnh để chuyển hóa chúng thành năng lượng của cuộc sống.

“Wisdom of Trauma” (tạm dịch: “Minh triết của sang chấn”) - bộ phim tài liệu vừa ra mắt này đưa ra những kiến giải thông thái của vị tiến sĩ, tác giả sách tâm lý nổi tiếng Gabor Maté. Ông đã dành hàng chục năm để khám phá lý do tại sao xã hội phương Tây phải đối mặt với một “đại dịch” liên quan đến sang chấn giết chết (tự tử) trên 800.000 người mỗi năm trên toàn cầu, chỉ riêng trong độ tuổi từ 15 - 24? Và cứ 5 người Mỹ thì có 1 người được chẩn đoán có các vấn đề liên quan đến bệnh tâm thần? 

Gabor Maté đã khám phá ra những nguyên nhân dẫn đến sang chấn tinh thần ở con người thời hiện đại, đặc biệt là giới trẻ. Trong bộ phim này, có một câu nói của ông mà tôi rất thích: “Khi nói đến sang chấn, người ta thường chỉ nói đến những người từng trải qua những đau đớn, tổn thương; nhưng có một loại sang chấn khác là những người đơn độc với sự tổn thương”. Những người đơn độc với sự tổn thương - theo ý ông, là những người trải qua sang chấn mà không biết nói ra hay chia sẻ cùng ai. Và sự đơn độc với sự tổn thương đó càng khiến cho bệnh tình của họ ngày càng nặng thêm và kéo dài dai dẳng. Trong khi với những bệnh nhân được chia sẻ, được thấu hiểu, được chữa lành, nó sẽ mang lại những kết quả tích cực đến mức bản thân ông cũng không hình dung được trước đó. 

Trong đoạn kết bộ phim này, Gabor Maté kết luận rằng khi những bệnh nhân sang chấn được chữa lành, nguồn năng lượng bị ức chế trước đó sẽ được giải phóng và mang lại những tín hiệu tích cực cho cuộc sống hiện tại của họ. Năng lượng (tiêu cực) của sự chấn thương có thể được chuyển hóa thành năng lượng (tích cực) của cuộc sống - phải chăng, đấy chính là “minh triết của sang chấn” mà nhan đề của bộ phim tài liệu này muốn đề cập đến?

* * *

Cho dù là một người đã quen với cuộc sống độc lập và hoàn toàn có thể làm việc tại nhà, những cuộc giãn cách xã hội và bức bối vì dịch bệnh trong suốt nhiều tháng vừa qua cũng khiến tôi bị ức chế và ít nhiều trải qua cảm giác sang chấn.

Và “minh triết của sang chấn” với tôi trong những ngày qua, là những cuốn sách này. Những cuốn sách này tôi đã đọc trước đây, đã ít nhiều tìm ra những “minh triết” từ chúng. Và trong trận đại dịch này, tôi lại một lần nữa tìm thấy nhiều ý nghĩa từ chúng. Không gì hơn là chia sẻ những “minh triết” đó từ chúng, với hy vọng tạo thêm một chút động lực, hay cảm hứng từ những cuốn sách này. 

1. SỰ AN ỦI CỦA TRIẾT HỌC của Alan de Botton

Vị triết gia người Thụy Sỹ đã giúp triết học trở nên gần gũi hơn với đời sống qua những chủ đề luôn là nỗi bận tâm của con người hiện đại: Bị ghét bỏ, không tiền, thất tình, thiếu thốn vật chất và tinh thần, lo lắng, sợ thất bại và áp lực phải hành xử theo chuẩn mực, đối mặt với khó khăn... Ông đã trích dẫn, luận giải và kết nối các tư tưởng vĩ đại của các triết gia huyền thoại trong lịch sử loài người một cách dễ hiểu và thông thái. 

Trong chương “Niềm an ủi cho sự khó khăn”, ông trích dẫn và luận giải nhiều quan điểm của những triết gia nổi tiếng mà tôi nghĩ rất có ích cho chúng ta hiện nay, như: "Người khôn ngoan nỗ lực được tự do thoát khỏi nỗi đau, chứ không phải có được niềm vui” - Aristotle. 

"Chúng ta nên hướng mục tiêu của mình không phải vào những điều dễ chịu và vui vẻ trong cuộc sống, mà vào việc tránh càng xa càng tốt vô vàn điều xấu của nó… Những người hạnh phúc nhất là những người đi hết cuộc đời mà không phải gặp phải bất kỳ nỗi đau quá lớn nào, về thể chất cũng như tinh thần” - Schopenhauer.

"Chúng ta biết rằng cuộc sống toàn là khổ đau và ta càng cố hưởng thụ cuộc sống thì càng làm nô lệ cho nó, do đó ta (nên) vứt bỏ những điều tốt trong cuộc sống và tập sống tiết chế" - Nietzsche.

Trong cuốn “Tiểu luận” của Montaigne, một triết gia mà Nietzsche yêu quý, viết rằng “nghệ thuật sống nằm ở chỗ tìm ra công dụng cho những nghịch cảnh của ta”: "Chúng ta học cách chịu đựng những gì không tránh được. Cuộc đời của chúng ta, giống như sự hài hòa của thế giới, được tạo nên từ những nghịch âm cũng như từ những âm sắc khác nhau, ngọt ngào và chói tai, thăng và giáng, nhẹ nhàng và ầm ĩ. Nếu người nhạc sĩ chỉ thích vài âm thanh thì anh ta sẽ hát được gì? Anh ta phải biết cách sử dụng mọi âm thanh và hòa trộn chúng lại với nhau. Chúng ta cũng cần làm như thế với cái tốt và cái xấu đối với cuộc đời chúng ta, chúng cùng là một nguyên liệu”.

2. "SANG CHẤN TÂM LÝ: HIỂU ĐỂ CHỮA LÀNH" của Tiến sĩ Y khoa Bessel Van Der Kolk

Der Kolk từng nói rằng: “Ai cũng có thể bị sang chấn tâm lý, kể cả tôi, bạn, người thân, bạn bè, đồng nghiệp của bạn. Sang chấn không chỉ để lại dấu vết trong tâm hồn, cảm xúc của chúng ta mà còn ảnh hưởng đến cả cơ thể và hệ thống miễn dịch”. Ông cũng nhấn mạnh, một cơn sang chấn có thể tác động và ảnh hưởng đến cơ thể, tâm trí và não bộ của chúng ta nhiều hơn là ta tưởng. Cho dù sang chấn được xem là vấn đề sức khỏe cộng đồng cấp bách nhất hiện nay, ông cho rằng nếu chúng ta áp dụng những kiến thức và thực hành các bài tập để vượt qua sang chấn, nó sẽ để lại những kết quả tích cực đôi khi vượt xa sự mong muốn của chúng ta. 

"Hầu hết những người khởi xướng nên những thay đổi trong xã hội đều có kinh nghiệm cá nhân liên quan chặt chẽ tới sang chấn, ví dụ như Oprah Winfrey, Maya Angelou, Nelson Mandela, Elie Wiesel. Khi nhìn vào quá khứ của họ, bạn sẽ nhận thấy những hiểu biết sâu sắc và niềm đam mê của họ đều nảy sinh từ việc họ phải đối mặt với việc cuộc sống của mình có thể bị hủy hoại như thế nào. Và điều này cũng đúng với xã hội. Rất nhiều tiến bộ vượt bậc mà chúng ta đạt được đều chính nhờ những trải nghiệm sang chấn mà loài người phải trải qua như các cuộc Thế chiến, Thời kỳ Đại suy thoái…".

3. "POWER vs. FORCE" của David R. Hawkins

Trong cuốn sách nói về “Trường năng lượng và những nhân tố quyết định tinh thần, sức khỏe con người”, tiến sĩ David R. Hawkins, nhà tâm thần học, bác sĩ và đồng thời cũng là nhà nghiên cứu về ý thức nổi tiếng của thế giới. Với ông, ý thức hay trường năng lượng tinh thần của con người là một nguồn năng lượng vô tận. Sau hơn 25 năm nghiên cứu, ông đã cho ra đời Bản đồ Ý thức (với thang đo từ 1 - 1000) để thể hiện tình trạng sức khỏe thể chất, cảnh giới tinh thần của con người bằng con số cụ thể. 

Chương dưới đây ông lý giải đến sức khỏe thể chất, tinh thần liên quan đến bệnh tật như thế nào với nhiều kiến giải quá hữu ích cho chúng ta trong thời điểm hiện tại.

"Nói chung, thái độ tích cực có lợi cho sức khỏe thể chất và tinh thần, trong khi bệnh tật lại gắn liền với những thái độ tiêu cực như tức giận, ghen tị, thù địch, tự ti, sợ hãi, lo âu… Trong lĩnh vực phân tâm học, thái độ tích cực gọi là những cảm xúc có ích và thái độ tiêu cực gọi là những cảm xúc nguy cấp. Đắm chìm quá lâu trong những cảm xúc nguy cấp sẽ làm suy yếu thể chất hoặc tinh thần và sức mạnh cá nhân của con người. Làm thế nào người ta có thể vượt qua được thái độ tiêu cực để tránh bị bào mòn năng lượng và sức khỏe như thế? Quan sát lâm sàng cho thấy bệnh nhân phải đạt đến một điểm quyết định. Chân thành khao khát thay đổi cho phép người ta tìm kiếm những mô thức điểm hút năng lượng cao hơn trong những biểu hiện phong phú của chúng".

"Như chúng ta đều biết, nếu bạn giữ một ý nghĩ tiêu cực cụ thể nhất định trong tâm trí, thì một cơ bắp cụ thể chắc chắn sẽ bị suy yếu; nếu sau đó bạn thay ý nghĩ này bằng một ý nghĩ tích cực, thì cơ bắp kia sẽ lập tức khỏe khoắn trở lại. Sự kết nối giữa tâm trí và cơ thể có tính tức thì, vì thế những hồi đáp của cơ thể một người sẽ chuyển dịch và thay đổi từng khắc tương ứng với chuỗi ý nghĩ và những cảm xúc liên quan của người đó".

 4. "SỐNG VỐN ĐƠN THUẦN" - Phong Tử Khải

Cuối cùng là cuốn tạp văn của nhà văn, họa sĩ người Trung Quốc đã viết gần một thế kỷ trước nhưng đọc ở thời điểm này vẫn thấy hiện đại, tinh tế và những giá trị thưởng thức, đặc biệt với những ai tìm kiếm sự điềm tĩnh và giản dị trong đời sống. Đọc "Sống vốn đơn thuần" lúc này, chúng ta sẽ tìm thấy trong đó một lời an ủi: "Việc trên đời, chỉ cần vẫn còn cơ hội sống thì dù liên tiếp gặp thiên tai nhân họa, tạm thời bị ức chế, sớm muộn cũng sẽ có ngày ngẩng cao đầu. Việc cá nhân là vậy, việc gia đình là vậy, việc quốc gia, dân tộc cũng là như thế...".

 
Theo Lê Quân - ĐBND
 
 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...

  • Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.

  • 1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.

  • Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.

  • Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).

  • *Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.

  • Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...

  • Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.

  • I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.

  • Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.

  • Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.

  • I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.

  • Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.

  • Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.

  • Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...

  • Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.

  • Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

  • Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.

  • Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...

  • Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.