Mây trắng bên trời bay ngẩn ngơ

16:06 08/09/2008
NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Lãng Đãng Mây Trời của Thanh Nhơn - NXB Thuận Hoá - năm 2001)Gấp tập thơ "Lãng đãng mây trời" lại, tôi như thấy dưới mái tóc bồng bềnh trong gió của ông là cặp mắt nhìn xa xăm, phiêu diêu, và quanh đâu đây là hương rượu nếp thơm nồng toả ra từ vành môi tủm tỉm cười của ông.

Trong bài thơ "Trở về" ông đã chẳng viết đó sao:
"Sáng vui trà ấm hương sen tịnh
Chiều nhắm rượu be vị tré riềng"

Đúng là phong độ thư thái của một người đã trả xong nợ đời. Bây giờ chỉ còn việc lãng đãng mây bay nữa thôi. Phải là lúc lòng tĩnh tại lắm, những kỷ niệm xưa cũ mới trở về. Trở về một cách lâng lâng, thăm thẳm và sâu lắng:
" Những buổi tan trường Cha đến đón
Cổng trường thơ thẩn đứng chờ con"
(Đức sinh thành)
Một lời dặn của cha đọng mãi trong lòng, như đã kết tinh, không bao giờ tan:
"Cầm tay Cha bảo chăm lo học
Khôn lớn nên người với nước non"
(Đức sinh thành)
Và từ đấy người con nuôi chí. Cái thời Thanh Nhơn nuôi chí mình đất nước đang còn lầm than. Cái mầm ý chí được gieo vào một mảnh đất hết sức gian lao. Chỉ có người đồng cảnh ngộ mới hiểu, mới thông cảm được và không thể nói không nghiệt ngã:
"Khoai luộc, sắn lùi, cơm gạo hẩm
Thuốc xai nửa điếu ấm lòng nhau"

(Mái trường xưa)
Tuy khó khăn vậy, vẫn có tri kỷ:
"Bạn nghèo điếu thuốc chia nhau
Ao không đủ ấm cháo rau qua ngày"
(Bão táp)
Rất may tác giả lại được sinh thành ở một mảnh đất, mà ngay từ lời ru trên nôi đã nuôi cho lớp trẻ một triết lý Việt Nam: "Trong đầm gì đẹp bằng sen, Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng. Nhị vàng bông trắng lá xanh, Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Hoa sen mọc lên từ bùn, nhưng vẫn thơm ngào ngạt.
Ngay từ những ngày đói cơm thiếu áo ấy Thanh Nhơn đã nếm vị ngọt của đời. Đã đành ngọt đó mà cay đó, ông không hề giấu giếm. Tâm hồn xao động thế nào thì tác giả ghi lại thế ấy. Kỷ niệm đã lùi xa mấy chục năm mà bây giờ nhớ lại, ký ức của ông vẫn bâng khuâng:
"Em về phố cũ bâng khuâng
Còn anh thơ thẩn tần ngần trông theo"
(Hương thầm)
Cái tình đời nó thế, khi vị ngọt đã đụng lưỡi, đến lúc đụng vị cay, sẽ cảm thấy cay hơn. Song càng cay càng nuối tiếc:
"Đò xưa hò hẹn chiều thu tím
Nỡ để duyên thề lỡ mối tơ"
(Tình thu)
Thì ra, lẽ đời nó thế, những mối duyên tơ chấp mọi hoàn cảnh, lửa lòng cứ bén. Cứ cháy. Dù là âm thầm. Miễn là tồn tại được một cõi lòng. Những dở dang làm cho tâm hồn giàu có lên. Chỉ có lý giải như vậy mới hiểu được xao động trong Thanh Nhơn:
"Sông xanh lá thắm bao hò hẹn
Phong kín tâm tình gửi cánh chim"
(Vọng về)
Sự "phong kín" kia mới quý giá làm sao. Dẫu trong cái "phong kín" ấy có cả niềm vui và nỗi buồn. Đời nó vậy. Chả ai yêu mà thành ngay đâu. Đến như Nguyễn Du mà còn phải kêu lên: "Người đâu găp gỡ làm chi. Trăm năm biết có duyên gì hay không?". Nhưng rồi tất cả "mưa nắng nguôi dần chuyện xót đau". Lần theo thời gian, Thanh Nhơn đã trưởng thành. Ông được quyết định về công tác ở trường Quốc Học, hình như đó là bến đợi mà ông mong mỏi, trông chờ. Ông đã ở đó, suốt đời, cho đến tận khi về hưu. Thời gian đã giúp ông mãn nguyện.
Tập thơ "Lãng đãng mây trời" có 144 bài. Tôi lật giở từng trang. Bỗng 4 câu thơ này làm tôi giật mình:
"Xót cảnh chim bằng không chỗ đậu
Khen loài tôm tép khéo nơi luồn
Đất trời dâu bể ai lường được
Sân khấu mua vui vẫn diễn tuồng"
(Vui)
Đó là 4 câu thơ trong bài "Giông tố". Tác giả nhìn trời nổi cơn giông, ông bỗng nhận ra cuộc đời. Giông tố trở thành hình tựơng trong thơ ông. Một căp đối không nhức nhối trong lòng, không thể thốt ra được: "Chim bằng không chỗ đậu" và "tôm tép khéo nơi luồn". Ông tiếp tục cái giọng của dân gian: "Thẳng thắn thật thà thì thua thiệt. Lỗi lầm luồn lọt lại lên lương". Thì ra Thanh Nhơn quá đau nỗi đau nhân tình. Ông đã khái quát được: "Đất trời dâu bể ai lường được". Tôi gọi đó là câu thơ chiêm nghiệm.
Thì ra Thanh Nhơn đâu chỉ có "lang đãng mây trời", đám mây ấy đã dừng lại ở nỗi đau. Hình như đó là nỗi đau song hành cùng sự tồn tại của trái đất này. Nguyễn Bỉnh Khiêm về ở ẩn mà vẫn quặn lòng "Thớt có tanh tao ruồi đỗ đến, Gang không mật mỡ kiến bò đi".
Tôi cảm thấy được tiếng thở dài của Thanh Nhơn:
"Đạo lý cương thường luôn dạ ước
Công danh phú quý nhạt lòng ao"
(Ước vọng)
Có lẽ cũng phải ở cái tuổi thất thập mới có được tiếng thở dài ấy. Rất may tôi gặp ngay câu thơ rất tỉnh táo của ông:
"Phú quý vinh hoa phù phiếm đó
Nhân từ hiếu nghĩa mặn nồng đây"
(Trần gian quán trọ)
Sự phù phiếm của vinh hoa không thể tồn tại được cùng mặn nồng hiếu nghĩa. "Nhân từ hiếu nghĩa" là điểm tựa cho đám mây lãng đãng kia có chỗ dừng, không bị gió cuốn đi. Được hiếu nghĩa nhân từ neo lại, cho nên bây giờ Thanh Nhơn rất thảnh thơi:
"Bõ gánh ưu tư lòng thoải mái
Quên đi phiền muộn dạ vui tươi"

(Cuộc chơi)
Tâm hồn ấy thật xứng đáng để Nguyệt Đình tặng ông một bức thư pháp đồng điệu:
"Lưng bầu nửa túi tiêu dao
Câu thơ chén rượu ai nào cùng ta"
Gấp tập thơ "Lãng đãng mây trôi" lại, tôi rất mừng cho Thanh Nhơn. Ông đã dùng thơ để trải lòng mình. Hình như chỉ có thơ mới làm được điều đó. Đọc chữ cuối tập thơ, tôi cảm thấy vị ngọt nơi đầu lưỡi:
"Dù cho mưa gió, dòng đời
Ngọt bùi ấm lạnh chẳng vơi nghĩa tình"
(Mưa)
Đọng lại trong thơ Thanh Nhơn là cái tình. Hơn bảy chục năm trời trôi nổi trên dòng đời, ông mới khẳng định điều đó và viết những câu thơ ấy ông như thêm vào lời dặn lại cháu con. Dặn xong Thanh Nhơn thật sự cảm thấy mình đã tròn nghĩa vụ.
Tôi như thấy Thanh Nhơn lại nâng ly. Không phải ông uống rượu mà là nhấm nháp sự đời:
"Tình đời ấm lạnh say rồi tỉnh
Cuộc thế vơi đầy tỉnh lại say"

(Trần gian quán trọ)
Ông như đám mây trắng bồng bềnh, bay ngẩn ngơ trên đời, lãng đãng như thơ ông vậy.
N.Q.H

(nguồn: TCSH số 165 - 11 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ LAI THÚY      Thơ có tuổi và chiêm bao có tích                                  Hàn Mặc Tử

  • NGUYỄN HỒNG TRÂNNữ sĩ Tương Phố tên thật là Đỗ Thị Đàm sinh ngày 14/7/1900, nguyên quán ở xã Bối Khê, tổng Cẩm Khê, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên và mất ngày 8/11/1973 tại Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

  • TRƯỜNG KÝ(“Nụ cười Áp-xara”: Truyện ký của Hà Khánh Linh, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1983)

  • PHẠM PHÚ PHONGChính cái bìa tập truyện ngắn là Sứ giả Việt Hùng do hoạ sĩ Đinh Khắc Thịnh trình bày đã gợi ý tưởng cho tôi viết bài này, sau khi đọc đi đọc lại vài lần tập truyện ngắn gồm có chín truyện của Việt Hùng - chín truyện ngắn anh viết trong vòng hơn mười hai năm, kể từ khi tập truyện ngắn đầu tay Cô gái hoàng hôn (1997, cũng gồm có chín truyện ngắn), ra đời cho đến nay.

  • Ý THIỆNVào ngày 27, 28 tháng 7 năm 2001, tại chùa Từ Đàm - Huế đã diễn ra Lễ kỷ niệm 50 năm ngày Gia đình Phật Hoá Phổ - tổ chức tiền thân của Gia Đình Phật tử Việt Nam, với hơn 3000 đoàn sinh về tham dự. Sự kiện này đã thu hút sự chú ý của nhiều tầng lớp nhân dân thành phố Huế cũng như phật tử khắp nơi trên đất nước.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGNguyễn Đức Tùng: Chào nhà thơ và cô giáo dạy văn Đinh Thị Như Thúy. Được biết chị đang sống và làm việc ở một huyện thuộc tỉnh Đắc Lắc. Chị có tìm thấy cho mình một quê hương ở đó không?

  • ĐINH XUÂN LÂM - VÕ VĂN SẠCHTrong khi khai thác tư liệu về phong trào đấu tranh yêu nước chống xâm lược Pháp hồi cuối thế kỷ XIX của nhân dân ta tại Cục lưu trữ Trung ương, chúng tôi có tìm được hai bài thơ nôm của vua Hàm Nghi ban cho các quân thứ Bắc kỳ.

  • HỒ THẾ HÀKỷ niệm 8 năm ngày mất nhà thơ Tố Hữu (9-12-2002 - 9-12-2010)

  • NGUYỄN NHÃ TIÊNTừ buổi trình làng tập thơ “Bông hồng ngủ quên”, tiếp theo là tập “Nhặt mùi hương trầm đâu đây”, cho đến bây giờ thi phẩm thứ ba của Võ Kim Ngân “Viết lúc sang mùa” vừa mới được Nxb Văn học cấp phép ấn hành tháng 7-2010.

  • THANH THẢO(Đọc “Bán đảo” của Thái Bá Lợi)

  • TRẦN HUYỀN TRÂNNgày 10 - 10, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế và Công ty Văn hóa Phương Nam đã tổ chức buổi tọa đàm về tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường của nhà văn Nguyễn Khắc Phê. Buổi tọa đàm đã thu hút sự quan tâm sâu sắc của các nhà văn, nhà nghiên cứu và đông đảo sinh viên các trường đại học.

  • KIM QUYÊNSau tập thơ Ngày đầu tiên(*), nhà văn Trần Hữu Lục tiếp tục ra mắt bạn đọc tập Góc nhìn văn chương(**) và anh sẽ xuất bản tập truyện ngắn Trần Hữu Lục (tuyển chọn năm 2010). Thật là một mùa bội thu với nhà văn Trần Hữu Lục.

  • HỒNG DIỆU(Nhân đọc Trái tim sinh nở và Bài thơ không năm tháng *)

  • MAI VĂN HOANTôi cố hình dung những tháng ngày nhà văn Hồng Nhu trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh từng gắn bó đã hơn hai mươi năm với bao kỷ niệm vui buồn.

  • KHẢI PHONG“Thơ kỵ nhất viết điều người đã viết! Nhưng biết sao, khi tôi mến sông Cầu…Lòng khẽ nhắc: đừng nói điều đã viết,Sao âm vang cứ mãi gọi: sông Cầu”

  • (Về cuộc thi truyện ngắn dành cho sinh viên Huế do Sông Hương tổ chức)BAN TỔ CHỨC CUỘC THINhằm tạo không khí sáng tác, phát hiện các cây bút trẻ Huế, trong khuôn khổ Chương trình Phát triển Tài năng Trẻ, Tạp chí Sông Hương tổ chức Cuộc thi truyện ngắn dành cho sinh viên đang theo học các trường đại học và cao đẳng ở Huế.

  • LÊ HUỆCuộc thi Truyện ngắn cho sinh viên Huế do tạp chí Sông Hương tổ chức đã thu hút được sự tham gia của rất nhiều các bạn trẻ mang trong mình khát vọng văn chương. Những truyện ngắn dự thi đã cho ta thấy được một vóc dáng mới của các cây bút trẻ Huế hiện nay: phản ánh cuộc sống đương đại từ nhiều góc cạnh bằng bút pháp tinh tế, mới mẻ, giàu trí tuệ và đầy chất thơ. Mười lăm truyện ngắn xuất sắc lọt vào chung khảo đã được tập hợp lại thành ấn phẩm mang tên “Yêu xa xa một phút”.

  • PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.

  • NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?

  • KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.