Mấy suy nghĩ về thơ và thơ trẻ

10:54 27/11/2008
NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

Nhưng thơ là gì thì chẳng ai dám quả quyết là mình đã nhìn thấy hay bắt giữ được. Thơ giống như Gió. Không ai biết rõ Gió từ đâu tới và Gió đi về đâu, nhưng ai cũng cảm thấy Gió mang chứa những năng lực huyền bí siêu phàm. Trên lộ trình viễn du vô định, Gió đã tạo ra biết bao hiện tượng lạ lùng khó mà đoán trước. Kito coi Gió là “Thần hồn thiêng liêng”. Trang Tử gọi Gió là “Thế nhạc”. Liệt Tử luyện mình thành gió vân du đó đây tuỳ thích đến nỗi  không biết Gió đi với ta hay ta đi với Gió”.  Thơ cũng mang chứa năng lực huyền bí siêu phàm chẳng khác gì Gió vậy. Thơ làm cho ta vui buồn lúc nào không hay. Thơ làm cho ta thoát ra ngoài tục luỵ phiêu diêu cùng trời đất, hoà nhập với thiên nhiên, hoặc đồng cảm cùng đồng loại. Lắm khi, Thơ còn tạo nên sức mạnh tuồng như mê tín của cả một cộng đồng. Chính vì thế mà Thơ có mặt ở mọi thời, mọi người, mọi nơi. Từ  xưa, Thơ được coi như một tôn giáo và được xếp thứ tư sau Thượng đế và Thánh, Thần.

2. Tôi không nghĩ Thơ chỉ dành riêng cho một số người. Không riêng ai độc quyền về Thơ cả, kể cả sự phán xét. Thơ ở trong mỗi người chỉ chờ có dịp là xuất thần. Nhiều người làm thơ là điều tốt trong thiên hạ, bởi vì thơ chỉ có ở chốn thiện tâm. Những vụ án văn chương trong lịch sử hầu hết là xảy ra đối với Thơ, nhưng xét cho cùng đều bị qui tội phạm huý, phạm thượng với cá nhân kẻ cầm quyền hay thể chế chính trị qua sự suy diễn méo mó, và rút cuộc nó trở thành những bài học cho hậu thế cần ứng xử với Thơ một cách tử tế hơn. Đấy cũng là một quan hệ tế nhị giữa người viết và người đọc. Các chủ thể sáng tạo Thơ có tài luôn hướng tới cái mới lạ. Không mới lạ thì không thể gọi là sáng tạo, và chỉ làm nản lòng những người đọc anh minh. Có hiện tượng nhiều nhà thơ trẻ phương Đông hướng về phương Tây và ngược lại, cũng chính là mong muốn hướng tới cái mới lạ. Cần có thái độ bình tĩnh không nên nóng vội phê phán hay phán xét họ. Đấy là dấu hiệu hội nhập thế giới Thơ trong tương lai, nó làm phong phú hơn cho cả phương Đông lẫn phương Tây. Không có ảnh hưởng phương Tây thì không có thành tựu “Thơ mới” Việt những năm 30 thế kỉ qua, cũng như không có ảnh hưởng của Đường-Tống thì không có một thời kì ánh sáng trong thơ Lý-Trần rực rỡ một thời. Sự dung hợp của nhiều nền văn minh đang diễn ra trong thế giới hiện đại, không lẽ gì Thơ ca tự tách mình ra theo vùng miền hạn hẹp, khư khư phụng thờ vinh quang quá khứ mà không chịu tìm kiếm và làm nên những vinh quang mới? Tôi dám nói là tôi khá chịu đọc những nhà thơ trẻ. Thơ của họ có khi đi xa cái tuổi của họ có, đấy là họ đã huy động được văn hoá đọc, văn hoá sống và văn hoá viết trên cơ sở tưởng tượng phong phú và kì lạ của thiên bẩm. Không nên bắt họ phải chờ đợi cũng như không thể bắt Nguyên Hồng phải bốn năm mươi tuổi mới được viết “Bỉ vỏ” khi mà ông viết ra thiên tiểu thuyết kì lạ này lúc mới 17 tuổi.

3. Ai đó nói rằng, cá tính sáng tạo bị triệt tiêu thì văn học có chung một gương mặt, đấy là cái mặt nạ của thần chết. Sự tôn trọng cá tính, phong cách, trường phái bao giờ cũng làm cho văn học phong phú và đa phức. Có thơ đọc để hiểu và có thơ đọc để cảm. Từ lâu, Cao Bá Quát đã chạm tới cái thăm thẳm của thơ khi ông cho rằng “Cố tình hiểu nghĩa chỉ dại thôi” (tức tâm liễu nghĩa chân như si). Hoài Thanh trở thành một nhà phê bình thơ quán quân của thế kỷ khi ông đọc nó bằng con mắt trực giác, cùng với sự quan tâm đến đời sống riêng biệt của từng thi sĩ. “Một nền phê bình hay, thường ra đời từ sự thân quen (với tác giả) và từ sự tiếp xúc thường xuyên lâu dài với tác phẩm được đánh giá”- Nhận xét này của Octavio Paz có vẻ trái ngược với những “nhà phê bình khách quan”, nhưng thực ra đây là một gợi ý đáng để giới phê bình lưu ý, đặc biệt khi họ phải tiếp cận những giá trị mới có tính khai mở trên hệ thống ngôn ngữ mới phức tạp và đa nghĩa. Khi thơ ca trong tình hình “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” thì sẽ xuất hiện vô số niềm vui tầm tầm, nỗi buồn tầm tầm, yêu ghét tầm tầm, có nghĩa là vô số những tác phẩm tầm tầm, cỏ dại lấn át những mầm cây. Cái tài của nhà phê bình không phải là đốt cỏ (hẳn sẽ làm thui chột các mầm cây) mà phải phát hiện ra các mầm cây để nâng niu chăm sóc nó. Có như thế mới giúp cho người đọc phân biệt được CÂY với cỏ. Đừng sợ cỏ, cỏ mãi mãi vẫn chỉ là cỏ mà thôi. Vấn đề đáng lưu ý đối với phê bình thơ của ta gần đây là: Khi thì nhầm cỏ là cây, khi lại nhầm cây là cỏ.

4. Một nữ tiến sỹ Nhật bản - chị Mori - thạo nhiều ngoại ngữ (khá sành tiếng Việt) và đang tìm hiểu văn học Việt Nam, sau khi nghe nhà thơ Hoàng Cầm và mấy nhà thơ ta đọc thơ đã không kìm được xúc động, liền nhận xét: “Tôi thấy thơ Việt Nam hay không kém thơ thế giới mà tôi đã được đọc!” Đấy không phải là một nhận xét “ngoại giao”, mà là một sự khám phá về ngôn ngữ thơ Việt. Nghệ thuật thơ Việt với những cuộc cách mạng và thành tựu của nó đã tôn vinh tiếng Việt lên tới những đỉnh cao rực rỡ qua nhiều tác phẩm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà hay Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Xuân Diệu, Bích Khê, Nguyễn Bính, Hoàng Cầm, Quang Dũng,... Thế hệ thơ xuất hiện trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cũng tạo nên một cuộc đi dài với những đóng góp đáng kể ở giai đoạn “sau chống Mỹ”. Trong những năm gần đây, có người quan niệm rằng thơ ta cần tước bỏ những rườm rà ngôn ngữ mà chỉ cần hướng tới các ý tưởng hay “thông điệp” để dễ được dịch ra tiếng Anh, (hay các ngoại ngữ khác) mới mong truyền bá ra thế giới; ngược lại có người lại cho rằng cần “phôn-clo hóa cho thơ” mới dễ dàng phổ cập thơ trong đời sống thị trường đầy xáo trộn ở nước ta. Cả hai quan niệm ấy đều sai lầm khi chối từ chức phận của ngôn ngữ đa nghĩa tạo ra tính hấp dẫn đặc thù của thơ nói chung và thơ Việt nói riêng. Chính các nhà thơ phải biết mang tới cho dân tộc mình một ngôn ngữ thơ sinh động và mới mẻ.

Nói như Hêghen: “Nhà thơ là người đầu tiên đã làm cho dân tộc mình mở miệng và thiết lập mối quan hệ giữa biểu tượng và ngôn ngữ”. Tôi đọc lại thơ Việt qua các kiệt tác, các tuyển tập và những tập thơ đương đại, thiển nghĩ rằng cũng chẳng có gì đáng hổ thẹn trước thơ của các dân tộc khác. Chúng ta cần khiêm tốn học hỏi, nhưng cũng không nên quá tự ti khi thơ ta ít được truyền bá trên thế giới. Việc chuyển ngữ từ tiếng Việt ra tiếng nước ngoài là cả một vấn đề lớn, như có lần tôi đã viết trên báo Văn Nghệ và trả lời đài RFI rằng, quá hiếm những nhà thơ nước ngoài thông thạo ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam. Dịch thơ là tái tạo bài thơ trên một ngôn ngữ khác, không phải ai thạo tiếng nước ngoài là cũng dịch thơ hay được. Phải có những nhà thơ nước ngoài dịch thơ Việt như nhiều nhà thơ Việt đã dịch thơ nước ngoài. Muốn có được điều đó, nhà nước cần phải có một chiến lược đào tạo mới hòng mở mày mở mặt cho thơ Việt ra cùng thế giới đúng như nó vốn có, chứ không phải là nó mang bộ mặt méo mó dị dạng như hiện tại.  Có thể nói, đây là một “thiệt thòi” lớn cho thơ Việt cần được khắc phục trong tương lai.

5. Thời nào cũng xuất hiện những nhà thơ trẻ. Họ trẻ cả về tuổi đời và trẻ trung trong cảm xúc, tư duy và ngôn từ. Họ tạo ra hình thức như chính họ không an bài trong những “kiểu mốt” thời trang quen thuộc ngoài đời. Sự “đập phá” những khuôn thước cũ để đưa ra những hình mẫu mới là bản chất, hay nói cách khác là tâm lý chung của tuổi trẻ khao khát sáng tạo nhằm khẳng định chính mình. Trong thơ, sự xuất hiện những gương mặt trẻ có cá tính thường dễ gây “sốc” cho những người vốn đã quen chiêm ngưỡng những giá trị ổn định. Vấn đề “đạp đổ thần tượng” là một vấn đề khó được chấp nhận, vì chưa có thần tượng mới thay thế, vì tâm lý sụp đổ thần tượng hình như chưa được chuẩn bị một cách đầy đủ. Vậy nên, những cú “sốc” của đối tượng tiếp nhận thơ “khác chuẩn” là không thể tránh khỏi.

Nhưng không chỉ có thế. Vẫn có những người đọc thơ chán ghét sự nhàm chán, cũ kỹ, sáo mòn đến vô cảm của thơ, và họ khao khát cái mới, khao khát sự đổi thay, làm phong phú thi đàn, cũng có nghĩa là làm phong phú hơn tâm hồn của con người thời đại. Bởi chính thời đại luôn vận động, và nhiều quan niệm về thẩm mỹ, lối sống, đạo đức, kinh tế, chính trị... cũng dần đổi thay cùng thời đại của nó. Sự xuất hiện những giọng điệu mới lạ, những tên tuổi chưa quen (không chỉ của thế hệ trẻ) như một nhu cầu khẩn thiết đối với họ. Và sự bắt gặp này lại mang tới cho họ niềm vui, nỗi buồn, thất vọng và hy vọng.
Gần đây (mươi năm qua), vấn đề tình dục trong văn học ở ta luôn được “soi kính lúp”. Nhiều nhà thơ nhà văn động bút vào tình dục luôn được coi là những đối tượng “cần xem xét”, bởi họ đã động vào hàng rào “cấm kỵ” không văn bản của xã hội cộng đồng. Chính vì thế mà thơ Vi Thuỳ Linh, văn Đỗ Hoàng Diệu (những người thực sự trẻ cả tuổi đời lẫn quan niệm văn chương) được đưa ra mổ xẻ không thương tiếc, và đã trở thành những cuộc tranh luận, bút chiến không phân thắng bại giữa các nhà phê bình không cùng quan niệm, còn các tác giả thì ngậm ngùi đau đớn mang trong mình “nỗi oan Thị Kính” mà không sao giải toả.

6. Mười năm qua, có thể nói đấy là mười năm xuất hiện và khẳng định của nhiều nhà thơ trẻ. Tôi muốn nhắc đến những người mà ngay từ khi họ mới xuất hiện đã gây cho tôi sự chú ý và hào hứng viết bài cổ
suý, đề cao hoặc lưu ý đến họ. Hiện tượng Văn Cầm Hải ở Huế với tập thơ Người đi chăn sóng biển phải đưa qua 3 nhà xuất bản mới được cho phép in, không phải vì phạm luật cấm mà chỉ vì “thơ lạ quá, đọc không hiểu”. Tám năm sau, tập thơ thứ hai của Hải cũng bị nhận xét đúng như thế, và khác với tập trước là không đâu cấp phép cho in. Nhưng thơ Hải lại được dịch ra tiếng Anh khá nhiều, và xuất hiện trong một số tuyển tập quan trọng trong nước và nước ngoài. Và Hải đã phải trở thành hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam bằng 2 tập bút ký độc đáo, và “khó đọc” không kém gì thơ Hải. Hiện tượng Vi Thuỳ Linh rầm rộ hơn, bị phê là “mới mười mấy tuổi mà viết về tình dục như người từng trải, cứ là hư trước tuổi”. Hai tập KhátLinh dù sao cũng đã được xuất bản. Đến tập Vili thì chạy vòng quanh qua đủ các cửa ải, và rốt cuộc là xếp xó. Năm năm sau, nghĩa là đến tháng 10.2005 mới được in ra bằng một cái tên khác: Đồng tử, một số bài được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp. Và ông giám đốc Festival Thơ quốc tế tại Pháp đã mời Linh, đại biểu trẻ nhất, tham dự và đọc thơ trong một Festival như thế tận bên Tây. Phan Huyền Thư cũng là một nhà thơ trẻ sắc sảo, gai góc và sành điệu ngôn từ. Thơ của Thư chẳng “hiền lành” gì, cũng chát chúa thế sự, đanh đá dục tình, nhưng khi tập Nằm nghiêng ra đời thì chỉ nhận được toàn lời tán dương, khâm phục. Chỉ có Nguyễn Hữu Hồng Minh là bị (được) dư luận co bóp liên hồi, khi thì vì thơ tục bẩn, khi thì vì lớn tiếng tuyên ngôn. Nhưng Minh là một người thông minh, “non dạ” nên dần dà cũng được “bỏ qua”. Chỉ có nhóm Mở miệng là nổi đình nổi đám trên mạng và sách xuất bản dưới hình thức phô-tô với lối thơ diễu nhạo và tuyên ngôn “chúng tôi không làm thơ”, nghe ngồ ngộ thế nào...
Vâng, thời gian trôi qua, và những gì đáng còn lại thì cứ còn lại. Thơ trẻ dần dần khẳng định vị trí của họ. Thực tế tâm hồn họ không có chiến tranh đẫm máu như thế hệ cha anh. Họ có thực tế của thời bình mở cửa và hội nhập cũng đầy ba động, thách thức mỗi thân phận con người. Thơ họ đang tiếp cận với xu hướng đó.

7. Thơ ta vẫn đang hay, nhưng cái hay có vẻ êm ái, mơn man, rả rích trong mỗi ngõ nhỏ của đời sống tình cảm, mà nó thiếu một “cú hích” mạnh, một tư tưởng lớn tạo ra sự đột biến kinh ngạc trong đời sống văn học. Không ít các nhà thơ thoả hiệp với tiếng vỗ tay trong trò chơi giải trí của đám đông kiểu “vui chơi có thưởng” xuất hiện nhan nhản gần đây. Thơ không phải là khẩu hiệu chữ to để có thể phơi phóng trên các ngã ba ngã tư hay tầm gửi vào các phương tiện quảng cáo tiếp thị dung thô mà không ít người ngộ nhận. Cái mà thơ ta cần hướng tới là một cuộc cách mạng tư duy và ngôn ngữ nghệ thuật. Đấy không phải là cuộc cách mạng chối bỏ di sản thơ, mà tạo ra những di sản mới vừa khác biệt lại vừa mang tính kế thừa. Trong sáng tạo, các cá nhân có quyền chối bỏ và phủ nhận kẻ khác để làm nên chính mình, tất nhiên điều đó không đồng nghĩa với sự cắt đứt văn hóa hay văn minh mà các cá nhân cùng tiếp nhận. Nếu một nhà thơ nào đó tuyên bố “tôi không thích Nguyễn Du” thì cũng chẳng can hại gì đến uy tín lớn lao của nhà đại thi hào. Vấn đề là anh có dám từ giã cái cũ để làm nên cái mới hay không mà thôi. Ý tôi muốn nói là Thơ ta không thể an bài với thành tựu đã có, mà cần can đảm, táo bạo hơn để bước qua chính mình. Hoặc nói như Eptusenco là: “Hãy đấm vào bức tường, có thể vỡ tay đấy, nhưng cũng có thể làm vỡ bức tường”.
N.T.T

(nguồn: TCSH số 205 - 03 - 2006)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • (Cuộc trưng cầu ý kiến các giảng viên dạy lý luận và lịch sử văn học ở các trường ĐHTH ở Liên Xô)

  • ĐỖ LAI THÚY

    Ngồi buồn lại trách ông xanh
    Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười
    Kiếp sau xin chớ làm người
    Làm cây thông đứng giữa trời mà reo

                             (Nguyễn Công Trứ)

  • NGUYỄN KHẮC THẠCH

    Không biết ngẫu nhiên hay cố ý mà tập thơ sẽ in riêng của nhà thơ Trần Lan Vinh lại mang tên với chữ đầu là Lục (sáu) – Lục bát đồng dao? Thôi thì cứ nói theo khẩu ngữ nhà Phật là tùy duyên nhưng điều quan trọng lại không phải ở phần cứng đó mà ở phần mềm hoặc không ở chỗ thể mà ở chỗ dụng của danh xưng.

  • LTS: Thời gian qua, thơ Tân hình thức Việt đã bắt đầu được nhiều bạn đọc, bạn thơ quan tâm. Tuy nhiên, nhiều người vẫn băn khoăn về việc làm sao để đọc một bài thơ Tân hình thức? Làm sao để giữ nhịp điệu của thơ?... Bài viết dưới đây của Biển Bắc, nhằm giới thiệu cách đọc-diễn một bài thơ Tân hình thức Việt. Vì muốn làm sáng ý nguyện ngôn ngữ đời thường nên bài viết sử dụng ngôn ngữ rất THT Việt. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN

    Xuân đã đem mong nhớ trở về
    Lòng cô gái ở bến sông kia
    Cô hồi tưởng lại ba xuân trước
    Trên bến cùng ai đã nặng thề…

                          (Nguyễn Bính)

  • DÂN TRÍ

    Không học chữ Nho, nghe qua hai câu thơ Hán Việt vừa dẫn thì cũng có thể hiểu được nghĩa lý một cách mang mang hồn sử thi.

  • HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

    Khi mới học cấp 2, tôi đã thấy trong tủ sách nhà tôi có hai cuốn Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan và Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân do một người dượng mua về từ Sài Gòn.

  • THÁI KIM LAN

    Bài viết này chỉ là một phác thảo gợi ý về sự nghiệp và ảnh hưởng của hai nhà nữ trí thức miền Nam trong những thập niên 60, 70. Phùng Thăng tạ thế cuối thập niên 70. Phùng Khánh đã là Ni sư giữa thập niên 60 và trở nên một Ni sư Trưởng lỗi lạc trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam trước và sau 1975, liễu sinh 2003.

  • YẾN THANH

    “Vĩnh biệt mày, cái thằng không biết tưởng tượng. Mày tự mà đốt đuốc cho cuộc hành trình thăm thẳm của mày đi”

  • ĐỖ LAI THÚY

    Trong một vài năm gần đây, nhiều nhà phê bình và nghiên cứu văn học đã có những cố gắng đáng kể để thoát ra khỏi tình trạng tiếp cận văn học một cách xã hội học có phần dung tục, hướng đến cách tiếp cận mới xuất phát từ đặc trưng của chính bản thân văn học. Một trong nhiều đường hướng nghiên cứu có triển vọng đó là phong cách học.

  • Cần phải nói ngay, Tưởng tượng & Dấu vết là cuốn tiểu thuyết khó đọc. Nó khó đọc vì hai lẽ: thứ nhất, nền tảng logic văn bản không nằm trong phương pháp tạo dựng hay trong tri thức thực hành của tác giả, mà nó nằm sâu trong yếu tính[2] thời gian.

  • ĐINH VĂN TUẤN

    Thi hào Nguyễn Du khi sáng tác “Truyện Kiều” đã đặt tên cho tác phẩm nổi tiếng này là gì? Cho đến nay, giới nghiên cứu Kiều vẫn còn phân vân, chưa dứt khoát hẳn một nhan đề nào là khởi đầu do cụ Nguyễn Du đặt.

  • KHẾ IÊM
    Tặng nhà thơ Biển Bắc và Hồ Đăng Thanh Ngọc

    Nhà thơ và nhà nghiên cứu Mỹ Timothy Steele, trong bài viết “Phép làm thơ cho những nhà thơ thế kỷ 21”, nhấn mạnh, cách làm thơ trong thế kỷ tới sẽ là tuôn nhịp điệu ngôn ngữ nói vào thể luật, để hình thành nhịp điệu thơ.

  • HOÀNG DŨNG, BỬU NAM

    (Phỏng vấn nhà sử học Nguyễn Hồng Phong, nhà văn Huy Phương và nhà phê bình văn học Phương Lựu)

  • HỒ TIỂU NGỌC

    Thế kỷ XXI là thế kỷ của internet và truyền thông, nơi mọi chân lý và định luật đều gói gọn ở trong hai con số 0 và 1 của ngôn ngữ lập trình mạng.

  • VŨ THỊ THƯỜNG

    Gần đây, nhân công việc tìm nhặt tư liệu xung quanh vụ án Lệ Chi viên để viết một cái gì đó bằng văn xuôi, tôi có đọc một số sách viết về Nguyễn Trãi. Trong số sách tôi đã đọc ấy, có hai cuốn: Văn chương Nguyễn Trãi Chủ nghĩa yêu nước trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn của tác giả Bùi Văn Nguyên.

  • VŨ TRỌNG QUANG

    I. HÀNH TRÌNH TẤT YẾU
    Bước chân bắt đầu từ khởi điểm Octavio Paz “Giữa im lặng và tiếng nói, đó là thơ”. Vậy thì im lặng hay lên tiếng, có người nói thơ là tiếng nói, và có người cho vô ngôn là một giá trị.

  • ROLAND BARTHES

    Trong cuộc chiến giữa bạn với thế giới, hãy đặt thế giới ở hàng thứ cấp (Franz Kafka)

  • LÊ QUANG THÁI 

    Việt Nam đã có thơ mới sánh cùng với thơ mới của các nước Nhật Bản, Trung Hoa, Indonesia; khác nhau ở chỗ phong trào thơ mới dậy lên sớm hơn hoặc muộn hơn ba năm mà thôi. Còn các nước Thái Lan, Lào và Campuchia không có chuyện thơ mới bởi lẽ tình hình văn nghệ thiếu điều kiện phát triển.