Mấy suy nghĩ về chuyên mục lý luận và phê bình trên Tạp chí Sông Hương

15:18 05/02/2009
TRẦN THÁI HỌC(Nhân đọc Sông Hương phê bình và đối thoại - Nxb văn hoá thông tin - 2003)

1. Tạp chí Sông Hương kể từ ngày được thành lập đến năm 2003 đã tròn 20 năm. Với tuổi đời ấy, tuy chưa nhiều, nhưng Sông Hương đã sớm khẳng định vị thế của mình trong đời sống văn học của địa phương và của cả nước.
Với 200 số tạp chí ra mắt bạn đọc, Sông Hương đã đăng tải hàng nghìn tác phẩm có giá trị thuộc nhiều lĩnh vực sáng tác, lý luận, phê bình và đối thoại không chỉ trong phạm vi văn nghệ mà còn lan toả cả trên bình diện văn hoá của các nhà văn, nhà thơ, các nhà nghiên cứu có mặt trên khắp mọi miền của đất nước. Điều đó cho thấy, Sông Hương trở thành nơi hội tụ đầy sức hấp dẫn, nơi phát sáng sâu rộng có ảnh hưởng tích cực đối với độc giả cả nước.

Kỷ niệm 20 năm tạp chí Sông Hương, Ban tuyển chọn đã cho ra mắt bạn đọc 4 tuyển tập với hơn 2000 trang, trong đó, chuyên mục Phê bình và đối thoại chiếm 512 trang đăng tải trên 70 bài viết của các nhà nghiên cứu. Như lời nói đầu Cùng bạn đọc, “Do khuôn khổ và những khó khăn không thể khắc phục được, nên mỗi tác giả cũng chỉ góp mặt một bài trong tập. Đó là điều đáng tiếc, vì thế, có nhiều bài hay, giá trị cũng sẽ vắng trong công trình này (...). Ví như, có người có bài nhưng không có mặt trong tuyển tập do tính chất bài viết, do chủ đề, đề tài hoặc vấn đề đặt ra (...) chưa tiện đưa vào; có người viết đều đặn trên Sông Hương, nhưng chỉ chọn một bài cũng chưa thật công bằng; có những bài viết của nhiều tác giả có liên quan đến vùng đất và hiện thực văn hoá Huế, người chọn có “ưu ái” hơn cũng là điều dễ hiểu”. Dẫu Phê bình và đối thoại chưa tái hiện được bức tranh toàn cảnh không khí và thành tựu nghiên cứu học thuật trải qua 20 năm thể hiện trên tạp chí Sông Hương, nhưng thiết nghĩ đó cũng là một nỗ lực lớn đáng khẳng định.

2. Nhìn một cách tổng quát, Phê bình và đối thoại đã cho người đọc thấy được sự phong phú, đa dạng, tính phức tạp và đa chiều của nhiều bài viết về lý luận, phê bình và nghiên cứu trên tạp chí Sông Hương trong dòng chảy thời gian 20 năm của đời sống văn học. Ở đây, ta bắt gặp một bức tranh thu nhỏ nhưng không mang tính lược quy của một tuyển tập về đời sống văn học, và ngay cả trên lĩnh vực lý luận, phê bình, nghiên cứu cũng phản ánh khá toàn diện giá trị của những công trình, những bài viết theo từng phạm vi và cấp độ khác nhau.

Trước hết, cần nhận thấy giữa lý luận, phê bình và nghiên cứu quả là có những biên giới nhất định. Tuy cái khách thể tinh thần là văn học được nhìn nhận từ nhiều góc độ và tự chúng lại trở thành đối tượng khác nhau của từng phân môn thuộc khoa nghiên cứu văn học nói trên, nhưng giữa chúng tuyệt nhiên không hoàn toàn có sự phân tách mà ngược lại có mối quan hệ, chuyển hoá lẫn nhau. Qua Phê bình và đối thoại, Sông Hương đã chứng tỏ khả năng tập hợp và bao quát nhiều phương diện lý luận cơ bản Được đúc rút qua nghiên cứu tác giả và tác phẩm. Chẳng hạn vấn đề tư tưởng, thế giới quan, vấn đề thể loại, vấn đề hình tượng và ngôn từ nghệ thuật, vấn đề đề tài và nhân vật văn học..v.v. Bên cạnh những bài viết về các hiện tượng văn học đơn lẻ, tạp chí Sông Hương còn đăng tải những bài viết về những vấn đề lý luận mang tính hệ thống có giá trị. Chẳng hạn, Lý thuyết tiếp nhận và phê bình văn học của Trần Đình Sử, Lý luận phê bình và đổi mới của Ngọc Trai, Những đặc điểm của hệ thống lý luận văn học của Trương Đăng Dung..v.v.

3. Nét nổi bật của tạp chí Sông Hương còn được thể hiện ở sự quan tâm đến những vấn đề lý luận gắn kết không tách rời với thực tiễn sáng tác trong và ngoài nước. Đó là việc đăng tải những công trình, bài viết đi từ những cơ sở lý luận để soi sáng những hiện tượng sáng tác và tiếp nhận trong phạm vi một nhà văn, một giai đoạn hay thời kỳ văn học. Chẳng hạn, Khảo sát một loại bài ca dao viết theo thể tự do của Trần Hoàng, Tính Kịch trong thơ ngụ ngôn Laphôngten của Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Nhân vật tri thức trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng của Đỗ Hải Ninh, Cảm nghĩ về thơ hôm nay của Nguyễn Khắc Thạch ..v.v. Ngược lại, từ sáng tác của nhà văn hay trải qua đời sống của văn học mà làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận, góp phần nhận diện sự kế thừa và cách tân, tính ổn định và vận động trong quan niệm lý thuyết và thể loại, đề tài, hình tượng thơ, phong cách ..v.v.

Chẳng hạn, Sự đổi mới nghệ thuật của một số tác giả truyện ngắn Bình Trị Thiên của Nguyễn Thành, Nét riêng của thơ Lâm Thị Mỹ Dạ nhân đọc Trái tim sinh nở và Bài thơ không năm tháng của Hồng Diệu, Lịch sử tiếp nhận văn học Nga ở Việt Nam của Nguyễn Hồng Dũng, Xu hướng hiện đại chủ nghĩa trong thơ của Mã Giang Lân, Một số đặc điểm của thơ Haiku Nhật Bản của Hà Văn Lưỡng, Thanh Tịnh và những trang nặng tình quê mẹ của Lưu Khánh Thơ, Đặng Huy Trứ nhà văn hiện thực giữa thế kỷ XIX của Trần Đại Vinh..v.v. Từ sự phát triển của thực tiễn sáng tác, qua nhiều bài viết đăng trên tạp chí Sông Hương đã đánh động trong tư duy lý luận cần có cách nhìn và quan niệm mới trên nhiều phương diện cơ bản vốn được định hình qua hàng chục năm nay. Hơn bao giờ hết, tính cách mạng của thực tiễn sáng tác đòi hỏi lý luận cần có sự tổng kết, đúc rút, điều chỉnh và bổ sung để đổi mới nếu không muốn lạc hậu so với thực tiễn. Chính vì vậy mà bài viết Lý luận văn học trước thử thách của thực tiễn sáng tạo của Nguyễn Xớn đã đặt ra yêu cầu này đối với lý luận một cách cấp thiết được Sông Hương đăng tải như một thông điệp mang tính thời sự đến với bạn đọc.

4. Vấn đề lý luận trong lịch sử là một mảng đề tài quan trọng mà lâu nay được giới nghiên cứu trong nước quan tâm, đặc biệt là những quan điểm tiền đề có ý nghĩa đặt nền tảng để hình thành một nền lý luận văn học macxit ở nước ta. Ngoài những quan điểm mỹ học và lý luận văn học của C.Mác, Ph.Ăngghen, những quan điểm văn hoá văn nghệ của Đảng, tạp chí Sông Hương đã đăng tải những bài nghiên cứu của một số tác giả tiêu biểu vốn có ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành diện mạo nền văn học cách mạng trong hơn nửa thế kỷ qua. Đó là những bài như Hải Triều - trang sách và thời gian của Hồ Thế Hà, Hải Triều và việc ra đời Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan của Lê Thị Đức Hạnh .v.v.. Thực chất đây là những công trình nghiên cứu về các tác gia lý luận, phê bình có hệ thống được đúc rút lại trong phạm vi một bài báo súc tích, đầy ắp những vấn đề lý luận cơ bản có giá trị. Qua Sông Hương, với những bài viết như vậy, người đọc đã nhận diện từ trong quá khứ các cuộc phê bình luận chiến giữa những quan điểm lý luận phê bình mácxit với phi mácxit, giữa hai phái duy vật và duy tâm, giữa phái “nghệ thuật vị nhân sinh” với “nghệ thuật vị nghệ thuật”.

Ngoài cuộc tranh luận về triết học, trong phạm vi học thuật đại diện cho hai phái, một bên là Hải Triều, Hải Khánh, Hải Vân, Hồ Xanh, Bùi Công Trừng..v.v. và phái kia đối lập là Thiếu Sơn, Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều..v.v. đã cho thấy, quá trình hiện đại hoá nền văn học dân tộc theo khuynh hướng hiện thực dần dần được khẳng định không chỉ trên phương diện lý luận mà còn về thực tiễn sáng tác mà Kép Tư Bền là một ví dụ tiêu biểu có ý nghĩa mở đường. Hải Triều đã trở thành người chiến sĩ tiên phong của Đảng trên mặt trận văn hoá, văn nghệ, Những quan điểm của ông đúng như đồng chí Trường Chinh đã nhận xét: “Với trình độ ngày nay nếu ta xem lại (...) ta thấy còn sơ lược. Nhưng ở trình độ và hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, trong những cuộc bút chiến có những bài như đồng chí Hải Triều là xuất sắc. Những bài đó trên một mức độ nhất định đã làm sáng tỏ quan điểm giai cấp của Đảng trong văn học, nghệ thuật” (Trường Chinh về văn hoá và văn nghệ - T2, Nxb văn học,1986, trang 156). Đặc biệt bài viết về những quan điểm văn hoá văn nghệ của chủ tịch Hồ Chí Minh của Nguyễn Văn Hạnh đã giúp người đọc thấy được tính cách mạng và khoa học trong quan điểm của Bác. Thực chất đó là sự vận dụng sáng tạo những quan điểm mỹ học và văn học của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.Lênin vào thực tiễn cách mạng của nước ta trong quá trình lãnh đạo xây dựng một nền văn nghệ mới. Những quan điểm đó, giờ đây vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa soi sáng đối với việc phát triển một nền văn hoá tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc.

5. Đất nước bước sang thời kỳ đổi mới thì văn học nghệ thuật cũng đổi mới một cách toàn diện và triệt để. Sự đổi mới trước hết bắt đầu từ sáng tác, tiếp theo là đổi mới về lý luận và phê bình văn học. Từ cuối những năm 80 trở lại đây Sông Hương đã đăng tải hàng trăm bài viết phản ánh được không khí chuyển mình mạnh mẽ, sôi động của đời sống văn học. Nói riêng về chuyên mục lý luận và phê bình, Sông Hương đã chứng tỏ khả năng bao quát và tập hợp đội ngũ nghiên cứu trong nước quan tâm giải quyết những vấn đề cơ bản của lý thuyết văn chương sát thực với yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Bằng những nỗ lực đổi mới về tư duy, lý luận và phê bình trên Sông Hương không khuôn lại với cách nhìn và quan niệm cũ về văn học. Những nguyên lý được đề xuất từ lâu tưởng ổn định hay thay đổi không đáng kể thì gần đây đã bị lay động tận gốc, thậm chí đã trở thành tiêu điểm tranh luận của những quan điểm đối lập nhau.

Sông Hương đã đề cập đến nhiều mặt, nhưng tập trung ở những vấn đề trọng tâm như bản chất và chức năng của văn học, mối quan hệ giữa văn học và chính trị, văn học với hiện thực, tính giai cấp và tính nhân loại của văn học, phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa,..v.v.. Đây là những vấn đề lý luận quen thuộc trong lịch sử đã được xem xét, nhận diện lại một cách sát đúng hơn, trước sự đổi mới của đời sống văn học. Ngoài ra còn nhiều vấn đề phức tạp khác như lý thuyết tiến bộ về văn học, tiếp nhận văn học, kiểu sáng tác và thi pháp cũng được đưa ra trao đổi. Nguyên lý tính đảng, tính chân thật và tính nhân dân qua nhiều bài viết, Sông Hương đã giúp người đọc nhận rõ được sự vận động và đổi mới. Chúng thoát dần những thiên kiến chính trị, những quan niệm giai cấp, dân tộc hẹp hòi để đưa ra những tiêu chí mới, giá trị mới. Ngay cả Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa với những nguyên tắc tư tưởng - thẩm mỹ mà hơn nửa thế kỷ được coi là “khuôn vàng thước ngọc” của trào lưu văn học vô sản, xem ra về sau không hoàn toàn phù hợp nữa. Yêu cầu “phản ánh cuộc sống một cách chân thực lịch sử - cụ thể trong quá trình phát triển cách mạng của nó” không còn là tiêu chuẩn, là thước đo chủ yếu về thành tựu của sáng tác hiện nay.
Tất nhiên, diễn biến và đổi mới là quy luật chung của tiến trình khoa học. Do vậy, không ai có ý nghĩ ngây thơ rằng, sẽ có một thứ lý luận đảm bảo tính ổn định và chân lý tuyệt đối. Đóng góp của tạp chí Sông Hương chính là đăng tải được nhiều ý kiến khác nhau để người đọc rộng đường suy nghĩ và tiếp nhận. Có thể nói Sông Hương đã trở thành một diễn đàn sinh hoạt học thuật dân chủ, là nơi đối thoại nghiêm túc, đầy trách nhiệm đối với độc giả trên bước đường tìm kiếm chân lý khoa học.

6. Là một tạp chí của Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, trải qua 20 năm thành lập và phát triển, Sông Hương đã khẳng định vị thế của mình không chỉ trên địa bàn tỉnh mà còn trên phạm vi cả nước và quốc tế. Đến với Sông Hương, bạn đọc đến với sự mới mẻ của văn chương trong cảm nhận, phản ánh hiện thực, đồng thời đến với những tư duy mới mẻ của lý thuyết phê bình trong sự chuyển mình của đời sống văn học.
T.T.H

(nguồn: TCSH số 191 - 01 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...

  • LÊ THỊ HƯỜNG1. Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.

  • TRẦN THÙY MAICó lần anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: tính chất của người quân tử là phải "văn chất bân bân". Văn là vẻ đẹp phát tiết ra bên ngoài, chất là sức mạnh tiềm tàng từ bên trong. Khi đọc lại những bài nghiên cứu về văn hóa – lịch sử của anh Tường, tôi lại nhớ đến ý nghĩ ấy. Nếu "văn" ở đây là nét tài hoa duyên dáng trong từng câu từng chữ đem lại cho người đọc sự hứng thú và rung cảm, thì "chất" chính là sức mạnh của vốn sống, vốn kiến thức rất quảng bác, làm giàu thêm rất nhiều cho sự hiểu biết của người đọc.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCXuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cử nhân Hán học, giỏi chữ Hán, thông thạo chữ  Pháp, từng làm quan dưới thời Nam triều, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhân cách độc đáo.

  • HỮU VINH Chúng ta đã thưởng thức thơ, ca Huế, ca trù, hò, tuồng của thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ lừng lẫy của miền sông Hương núi Ngự. Nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của thi ông mà không nói đến thơ chữ Hán của thi ông là một điều thiếu sót lớn.

  • ĐỖ LAI THÚYQuang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là xứ sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do thổ ngơi xứ Đoài, phần kia do văn học lãng mạn.

  • CAO XUÂN HẠOĐọc bài Nỗi đau của tiếng Việt của Hữu Đạt (H.Đ) trong tuần báo Văn nghệ số 9 (2-3-2002), tôi kinh ngạc đến nỗi không còn hiểu tại sao lại có người thấy mình có thể ngồi viết ra một bài như thế. Tôi cố sức bới óc ra nghĩ cho ra người viết là ai, tại sao mà viết, và viết để làm gì. Rõ ràng đây không phải là một người hoàn toàn không biết gì về giới ngôn ngữ học Việt . Nhưng hầu hết những điều người ấy viết ra lại hoàn toàn ngược với sự thật.

  • MAI VĂN HOAN.Tôi biết Nguyễn Duy qua bài thơ “Tre Việt ” in trên báo Văn Nghệ. Từ đó, tôi luôn theo sát thơ anh. Mở trang báo mới thấy tên anh là tôi đọc đầu tiên. Với tôi, anh là một trong những người hiếm hoi giữ được độ bền của tài năng.

  • THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMỗi loại hình nghệ thuật ngôn từ đều có phong cách riêng trong cư xử với đối tượng mà nó phản ánh. Chính vì thế, đề tài tiểu thuyết trong khi mang những tính chất chung có của mọi thể loại văn học, nó đồng thời mang những tính chất riêng chỉ có của thể loại tiểu thuyết.

  • VĂN TÂMNhà thơ Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng) tuổi Tỵ (1941) quê "xứ Đoài mây trắng lắm", là một trong những thi sĩ bẩm sinh của thơ ca Việt hiện đại.

  • THANH THẢOHoàng Phủ Ngọc Tường có tập thơ "Người hái phù dung". Hoa phù dung sớm nở tối tàn, vẫn là loài hoa hiện hữu trong một ngày.

  • JOSH GREENFELDNgười Nhật vốn nổi tiếng vì tính bài ngoại của họ, thể hiện qua nghệ thuật cắm hoa và trà lễ. Tuy nhiên cũng từ rất lâu rồi nhiều nhà văn Nhật Bản vẫn quyết liệt phấn đấu mong tìm kiếm một chỗ đứng đáng kể trên các kệ sách của các thư viện nước ngoài. Họ làm thế không chỉ vì có nhiều tiền hơn, danh tiếng hơn mà còn vì một điều rằng những ai có tác phẩm được dịch nhiều ở nước ngoài thì sẽ được trân trọng, chờ đón ở trong nước!

  • BỬU NAM            Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của văn hào Victor Hugo (1802 - 2002)1. Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mệnh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học; bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỷ qua trong nền văn học và văn hóa Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của Hugo như “tất cả được lồng vào tất cả”.

  • LẠI MAI HƯƠNGTiểu thuyết Những người khốn khổ có một số lượng nhân vật nữ rất đông đảo, nhưng mỗi nhân vật mang một sức sống riêng, một sinh lực riêng bởi nghệ thuật xây dựng các nhân vật này không hoàn toàn đồng nhất. Bài viết sẽ đi vào khảo sát một số nữ nhân vật tiêu biểu, bước đầu thử tìm hiểu thủ pháp xây dựng và cái nhìn của Hugo đối với loại nhân vật này.

  • PHẠM THỊ LYTôi viết những dòng này vì biết rằng giáo sư Cao Xuân Hạo sẽ không bao giờ trả lời bài viết của một tác giả như anh Phạm Quang Trung và những gì mà anh đã nêu ra trong bài "Thư ngỏ gửi Giáo sư Cao Xuân Hạo đăng trên Tạp chí Sông Hương số 155, tháng 1-2002.

  • LÝ HOÀI THU“Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” ( *) (nguyên bản: Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình) là tác phẩm hồi ký của bà Trần Kiếm Qua viết về lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn và đại gia đình Trung Việt của ông. Bằng sức cảm hoá của những dòng hồi ức chân thực, tác phẩm của phu nhân tướng quân đã thực sự gây xúc động mạnh mẽ trong lòng bạn đọc Việt .

  • NGUYỄN BÙI VỢICách mạng tháng Tám thành công, Phùng Quán mới 13 tuổi. Mồ côi cha từ năm 2 tuổi, cậu bé sinh ra ở làng Thuỷ Dương xứ Huế chỉ được học hết tiểu học, sáng đi học, chiều giúp mẹ chăn trâu, có năm đi ở chăn trâu cho một ông bác họ.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Người tình là một cuốn tiểu thuyết hiện đại nổi tiếng của M.Duras. Tác phẩm đoạt giải Goncourt 1984, và đã từng gây một làn sóng xôn xao trong dư luận. Người tình được tái bản nhiều lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tác phẩm cũng đã được chuyển thành kịch bản phim 1992 (qua đạo diễn Jean-Jacques Annaud).

  • ĐÀO NGỌC CHƯƠNGCho đến nay những ý kiến về phương diện thể loại của tác phẩm Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử vẫn chưa thống nhất. Theo Trần Thanh Mại, đó là bài văn xuôi: “Nay xin đơn cử ra đây một vài đoạn của một bài văn xuôi của Hàn để chứng tỏ thêm cái sức cảm thụ vô cùng mãnh liệt ở nơi nhà thơ lạ lùng ấy.