Người xưa có câu rất thấu lý: “Khôn văn điếu, dại văn bia”, tôi nhớ đại khái, không hiểu có sai chữ nào không.
Nhà văn Nam Hà (giữa) ở chiến trường . Ảnh TL
Nhưng theo ý tôi hiểu thì câu này ý nói viết văn điếu cho người vừa nằm xuống, trong sự thương tiếc của mọi người thì chỉ cần nói toàn lời hay ý đẹp, màu mỡ phô ra hết… thì dễ viết đã đành, mà cũng dễ được lòng mọi người, dù có người cũng biết rằng đó chỉ là nói một phía mà thôi…, còn văn bia thì khác, được khắc vào đá, đã tồn tại mãi mãi, lại phải đánh giá đúng toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp một con người là điều rất khó, y như viết phê bình loại đại tài vậy. Nhưng đó là nói chung về hầu hết con người trên đời, nhưng thảng hoặc cũng có những con người, những cuộc đời ra ngoài thông lệ này, chẳng hạn vì những người ấy suốt đời sống đôn hậu, bình lặng, tôn trọng mọi người, không có một tỳ vết gì về ứng xử trên đời, sự nghiệp có thể lớn hay bé, nhưng không có gì phải phàn nàn. Vâng, khi nghĩ về nhà văn Nam Hà vừa tạ thế, tôi chợt nghĩ đến ý này, vì nhà văn Nam Hà quý mến của chúng ta đúng là một con người như thế. Và với ý nghĩ ấy, tôi sẽ kể ra đây mấy kỷ niệm về nhà văn Nam Hà, với sự yên tâm là mình hoàn toàn trung thực, nói những điều hay và vui như vốn có và không nói điều gì không hay chỉ vì nó không hề có, chứ không phải không nói. Và như thế, viết về một người thân quý vừa qua đời, dù đau buồn, thương tiếc nhưng lòng vẫn được an ủi, cái buồn cũng như vơi đi.
Vâng, theo cách ấy, tôi cứ kể vui vui mấy kỷ niệm thôi nhé:
Mặc dù đã biết đến tên nhà văn Nam Hà và biết bài thơ “Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi” rất hay của anh, nhưng hình như sau khi về báo Quân đội nhân dân một thời gian, tức là năm 1973, 1974 gì đó tôi mới biết nhà văn Nam Hà, khi ấy đã (hay là sắp nhỉ?) thành hôn với một người là bà con của nhà văn Nguyễn Trọng Oánh. Cả hai anh đều là người Nghệ An, đồng hương với tôi, và tính tình thì có nhiều điểm giống nhau. Thoạt gặp đã thấy ngay là người trung thực, hiền lành và mộc mạc đúng như chất đồ Nghệ không sai. Trong khi, dạo ấy cuộc sống hậu chiến đã mở ra lắm trò ăn chơi, du hí…, thì hai ông này đều là mẫu người không liên quan gì đến lối sống của cánh trẻ, nhất là giới văn nghệ sĩ ngày ấy. Chân chỉ hạt bột – đúng là chỉ có bốn từ ấy thôi. Thêm nữa, khi có ai hơi tỏ ra quá trớn trong lối sống, nhà văn Nam Hà cũng nhẹ nhàng góp ý. Cái việc anh ấy quan tâm đến người khác hoàn toàn là vì bản chất anh quá quý người và tử tế thế thôi. Chẳng hạn như có lần, tôi được một tờ báo có nhã ý mời ra làm tổng biên tập, trong lúc tôi đang phân vân, thì anh Nam Hà đã nói với tôi là nên ở lại Văn nghệ Quân đội thì tốt hơn, môi trường quá thuận lợi, quyền lợi, quân hàm, lương bổng sẽ tốt hơn, lại ít phải lo lắng gì, vì ông biết cái tạng như tôi không làm lãnh đạo được (tài thật, nhìn người thế thì… thánh thật). Chính vì nghe ông và một vài bạn khác như Vương Trọng, Trần Đăng Khoa mà tôi đã từ chối cái chức danh quyền rơm, vạ đá, danh chẳng biết đâu, chỉ đấu đá suốt ngày, làm ba hôm khéo lăn ra ốm mất. Thật hú vía!
Nhưng lần tôi nhớ nhất về tình cảm của anh Nam Hà là lần, vào đầu năm 1975, lúc ấy tôi đang làm ở báo Quân đội Nhân dân, tôi được cử đi vào chiến trường khu 6, tức Cực Nam trung Bộ, để công tác, phản ánh chiến cục xuân 1975. Anh Nam Hà vốn là người có mặt ở chiến khu này suốt nhiều năm trước đó trong kháng chiến chống Mỹ. Nghe tôi sắp đi vào cái mặt trận cũ của mình, anh Nam Hà (đang công tác bên Văn nghệ quân đội nhé) đã nhiều lần gặp tôi, kể cho tôi nghe tình hình trong đó, cả chuyện đánh giặc cũng như chuyện sản xuất, kiếm sống để tồn tại ở cái mảnh đất đúng là “cực nhất” không phải của Trung Bộ mà của cả nước, với biệt danh chiến khu lé bép, củ nần mà… Anh giới thiệu cho tôi các bạn bè còn trong đó, cách xử sự khi gặp địch hay khó khăn trong sinh hoạt và làm việc… Cho đến khi vào đến nơi, tận mắt trông thấy và sống cuộc sống với quân và dân cái nơi gian khổ nổi tiếng này, mới hiểu hết sự chịu đựng và phấn đấu kinh khủng của quân dân nơi ấy, và đặc biệt là của một người lính viết văn như anh Nam Hà. Thật không hiểu anh đã lấy sức lực đâu ra mà vừa theo bộ đội đánh giặc, vừa tăng gia sản xuất để kiếm thức ăn… lại còn giành thời gian để viết hết truyện ngắn này đến truyện dài khác, và làm cả thơ nữa – không chỉ có bài thơ nhắc tới trên đây đã quá nổi tiếng được anh làm từ trên đường Trường Sơn đâu nhé…
Tôi đã nghe các bạn anh còn trong đó như các anh Trọng Thủy, Trúc Linh… kể về những ngày anh Nam Hà ở chiến khu này. Hầu như chiến dịch nào quan trọng, ác liệt, gian khổ nhất anh đều có mặt… Họ đặt biệt hiệu cho anh là “Ông bốn ngàn năm” vì tinh thần trong bài thơ nói trên và tinh thần chiến đấu và phẩm chất sử thi trong đời cũng như trong tác phẩm của anh. “Bốn ngàn năm”, nghe thì có vẻ khẩu hiệu, như sách giáo khoa lịch sử, nhưng đó là một tinh thần của truyền thống muôn đời không cũ trong lòng con dân nước Việt ta từ xưa và sẽ mãi mãi tồn tại….
Từ ngày ra Bắc, về Văn nghệ Quân đội, điều kiện cho phép, thì… thôi rồi Lượm ơi, khẩu đại bác Nam Hà đã không ngừng nhả đạn, năm nào cũng có sách mới, cuốn nào cuốn nấy dày cộp. Tôi đã nói đùa là nếu chồng sách anh Nam Hà đã in lên thì chiều cao của chúng khéo đến vai anh ấy chứ không ít. Tôi lại nói đùa, nếu đã muốn bắt đầu đọc sách của anh Nam Hà thì phải chuẩn bị chu đáo, mọi việc phải làm xong trước, chuẩn bị lương thảo đủ dùng cả tháng, rôi hãy tính chuyện mở sách ra mà đọc nhé. Anh Khuất Quang Thụy còn có lần nói đùa là có thể mở một cuộc thi đọc sách của anh Nam Hà, trao giải hẳn hoi… ai đọc hết thì có thưởng xứng đáng… Ấy là nói đùa yêu thôi, vì sách nhiều và dày quá, chứ nói như nhà văn Nguyễn Trọng Oánh từng nhận xét rất đúng là anh Nam Hà rất có đầu óc của nhà quân sự, của các ông tướng tham mưu, nên đọc sách của anh ấy hiểu rất tường tận về các trận đánh, như cách ta ngồi trên cao mà quan sát trân đấu diễn ra dưới tầm mắt vậy, thú lắm chứ….
Vì là một người làm thơ, đáng lẽ tôi phải giành nhiều lời nhất để nói về bài thơ tuyệt vời của anh Nam Hà là bài “Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi”, nhưng bài này đã quá nổi tiếng, vô số người đã biết và đã thuộc nằm lòng bốn câu thơ có thể gọi không ngoa là bất hủ của anh là:
“Đất nước của những người con gái, con trai
Đẹp hơn hoa hồng, rắn hơn sắt thép
Phút chia ly không hề rơi nước mắt
Nước mắt để giành cho ngày gặp mặt…”
Nói thật, đó là những câu thơ đẹp bậc nhất trong thơ thời chống Mỹ. Bao thế hệ thanh niên ngày ấy, như nhà thơ Trần Đăng Khoa từng nói, đã lên đường ra trận vì sức hút của những câu thơ ấy của nhà văn Nam Hà. Một quy luật cũng thật lạ trong văn chương các bạn nhỉ. Mặc dù nhà văn Nam Hà là nhà văn chính xác rồi, mặc dù kho tàng văn xuôi của anh rất đồ sộ và có giá trị, nhưng chưa chừng bốn câu thơ trong bài hiếm hoi nói trên của anh lại bất tử và trở thành biểu tượng, hay ta hay gọi là thương hiệu, của nhà văn Nam Hà sẽ tồn tại mãi với mai sau. Chính vì vậy, tôi còn nhớ là có lần Tổng cục chính trị và Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức một đêm thơ nhạc kỷ niệm ngày 22.12 (hình như vào năm 2009), tại Cung Hữu Nghị Việt Xô, chúng tôi đã lấy bài thơ của anh Nam Hà làm tiêu đề và tinh thần chung cho cả đêm diễn hoành tráng ấy.
Bài cũng đã khá dài, những chuyện thú vị về nhà văn Nam Hà khó lòng kể hết ra đây. Chỉ kể thêm về chuyện phẩm chất an nhiên của nhà văn Nam Hà trong đời thực. Là một người sống lặng lẽ, đứng ngoài vòng thị phi, anh bình thản sống và bình thản làm việc, thậm chí cả bình thản để chết. Tôi còn nhớ dạo sắp chia tay với thế kỷ 20 và thiên kỷ thứ 2, có lần họp giao ban, ngồi cạnh nhau, anh Nam Hà mỉm cười bảo tôi: “Cứ nổ pháo mừng năm 2000 xong thì muốn chết lúc nào thì chết”. Thanh thản như thế là đạt đến lão thực rồi!
Giờ thì đã vượt xa cái mốc năm 2000 đến 18 năm rồi, nhà văn Nam Hà đã dừng lại cuộc sống và cũng là cuộc chơi của mình trên cái cõi mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gọi là “Cõi Tạm” này, để thanh thản phiêu diêu đi vào Cõi Thiên Thu của những Người Hiền, trong sự thương tiếc và tưởng nhớ của tất cả người thân, bạn bè, cùng đông đảo các thế hệ bạn đọc.
Với mấy chút kỷ niệm nhỏ nói trên, tôi, một thằng em đồng nghiệp, đồng hương của anh xin được thắp nén nhang cúi đầu giã biệt anh, nhà văn, nhà thơ Nam Hà vô cùng yêu kính của tất cả chúng ta!
21.5.2018
Theo Anh Ngọc - VNQĐ
Thông tin từ Nhà xuất bản (NXB) Phụ nữ Việt Nam cho biết, kỷ niệm 100 ngày mất nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, NXB phát hành hai cuốn sách mới, trong đó có một cuốn được coi như tiểu hồi ký của nhà văn và một cuốn do các nhà văn bạn bè viết về ông.
“Bay qua những khoảng trời ước mơ” (NXB Lao động) của Quyên Gavoye, tập sách gần 30 tản văn, đầy đặn cảm xúc, dày dặn trải nghiệm và nhiều lắm những tiếng lòng của một người con bôn ba xa xứ.
Truyện ngắn "Người bán than ở Chí Linh" giúp người đọc hiểu hơn về một gia đoạn lịch sử hào hùng của đất nước, hiểu hơn về một vị danh tướng lẫy lừng thời nhà Trần – Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư.
Hung tin Đại tá nhà văn Nguyễn Quốc Trung từ trần do Covid 19 làm tôi bàng hoàng. Mới đây, Nguyễn Quốc Trung còn nhắn tin hỏi thăm tôi. “Bác ở đâu? Giữ gìn sức khỏe nhé, con Covid ghê gớm quá”. Trung không quên dặn tôi: “Ráng tập trung hoàn thành trường ca về Mẹ nhé".
Cuốn sách “Sân khấu - Nghệ sĩ và một góc nhìn cuộc sống” (NXB Sân khấu, 2021) của NSND, họa sĩ, nhà thơ Lê Huy Quang chứa nhiều cảm nhận, cảm xúc qua nhiều năm tháng làm nghệ thuật của tác giả. Qua ba phần - Sân khấu, Nghệ sĩ và Góc nhìn cuộc sống, thêm phần Phụ lục, tác giả, người đọc nhận ra cách mà nhiều nghệ sĩ đã cống hiến cho nghệ thuật nước nhà.
Nhà văn, nhà thơ Trần Hữu Lục, tác giả “Tượng đài Sông Hương”, “Đưa đò’, “Vạn Xuân”, “Sông Hương ngoài biên giới”…đã qua đời tại TP.HCM do nhiễm COVID-19.
Những tác phẩm văn học có giá trị lịch sử, nhân văn sâu sắc đã khắc hoạ rõ nét cuộc đời, sự nghiệp của vị tướng huyền thoại của dân tộc Việt Nam - Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
“Hai phía chân dung” (NXB Nghệ An, 2021) là một tập “ngẫu văn”. Bằng giọng thủ thỉ tâm tình, tác giả đưa ta đến với nhiều địa danh.
Giữa lúc tình hình dịch Covid-19 tại TP Hồ Chí Minh căng thẳng, nhà văn Vũ Hạnh (trong ảnh) bị tai biến, phải nhập viện. 6 giờ sáng 15/8 ông qua đời, hưởng thọ 96 tuổi (1926 - 2021). Biết ông từ lâu, và mươi năm gần đây được gần gũi ông, hiểu ông, càng thêm yêu quý ông về tài năng và nhân cách. Thương tiếc vĩnh biệt một nhà văn lớn, đa tài, đầy nhiệt huyết với lý tưởng sống và lý tưởng nghệ thuật của mình!
Nhà xuất bản Kim Đồng vừa cho ra mắt bộ sách Bạn Văn Bạn Mình, tập hợp những cuốn sách chân dung văn học đặc sắc nhất của các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng viết về những người bạn, cũng là những văn nghệ sĩ tài ba, qua đó, giúp độc giả cảm nhận gần gũi hơn về tác phẩm, tác giả và cung cấp những tư liệu dồi dào, chân thực về lịch sử văn chương...
Lẽ ra, nếu không có sự bủa vây của đại dịch Covid-19, nhiều hoạt động để tưởng nhớ 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tế Hanh (20/6/1921 – 20/6/2021) đã được tổ chức trong tháng 6 vừa qua.
Được sự đồng ý cho phép của gia đình nhà văn Hữu Mai, Nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh vừa tái bản cuốc sách “Người lữ hành lặng lẽ” của nhà văn Hữu Mai. Đây là một là một trong số ít tiểu thuyết ký sự thành công lớn và được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cũng như nhận được nhiều tình cảm của người đọc.
Tin nhà văn Sơn Tùng từ trần đến với tôi trong một đêm tháng 7. Trời mưa rả rích, mùi hương trầm tri ân các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc như đang dâng tràn trong không gian man mác. Hình ảnh ông ngồi trước trang viết với bàn tay bị thương co quắp cầm chặt chiếc bút, hiện rõ trước mặt tôi. Dáng đi của ông với một bên chân chới với, một bên chân đã từng bị liệt đang cố nhích từng bước xa dần vào hư ảo…
Những cuốn sách chân dung văn học đặc sắc nhất của các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng viết về những người bạn, cũng là những văn nghệ sĩ tài ba, qua đó, giúp độc giả cảm nhận gần gũi hơn về tác phẩm, tác giả và cung cấp tư liệu dồi dào, chân thực về lịch sử văn chương...
Là một trong bốn tác phẩm của Đỗ Bích Thúy vừa ra mắt trong bộ sách có tên chung Vị, tiểu thuyết Người yêu ơi đã đem đến cho người đọc nhiều cảm xúc thật đẹp.
Trong thời gian gần 60 năm nghiên cứu, bằng “đôi mắt xanh” của mình, GS Phong Lê đã dày công khắc họa 90 chân dung văn hóa - văn chương Việt Nam.
Ngày 4.7, Công ty CP Văn hóa và Truyền thông Liên Việt phối hợp với NXB Dân trí và Gallery 39 tổ chức lễ ra mắt cuốn sách trực tuyến “Về Nguyễn Huy Thiệp”.
Thời xa vắng và Sóng ở đáy sông đều là những tác phẩm nổi bật trên văn đàn, được cho là đã mạnh dạn đi trước thời đại, mạnh dạn nhìn vào những ấu trĩ, bê bối, giáo điều của thời xã hội chuyển giao với những tàn dư dai dẳng trong tư tưởng và tâm hồn con người trong xã hội Việt Nam ở cả nông thôn và thành thị. Hai tiểu thuyết gắn với tên tuổi của nhà văn Lê Lựu vừa được "gặp mặt" bạn đọc thế hệ hôm nay với một diện mạo mới.
Cùng với Thời xa vắng, Sóng ở đáy sông là tiểu thuyết làm nên tên tuổi của nhà văn Lê Lựu. Nếu như Thời xa vắng ngay khi mới xuất bản đã gây tiếng vang, thu hút sự chú ý của bạn đọc trong nước, thì Sóng ở đáy sông chỉ được dư luận chú ý đến sau thành công vang dội của phim truyền hình cùng tên.
Trong số những nhà văn nữ trưởng thành trong bão táp của cách mạng và hai cuộc kháng chiến, nhà văn Lê Minh là người mở đầu, và là con chim đầu đàn viết về đề tài công nhân, công nghiệp và chân dung của các chiến sĩ cách mạng từ Bác Tôn, chị Minh Khai, chị Tư Già đến Kim Ðồng…