Mạn đàm về văn học

17:02 19/11/2010
L.T.S: Tối 27-3-1984, tại Huế, giáo sư Xi-đô-rốp, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Liên Xô, hiệu phó học viện Gooc-ki và là nhà lý luận Văn học nổi tiếng của Liên Xô, đã đến tham dự cuộc tọa đàm về các vấn đề văn học với các hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ở Bình Trị Thiên. Sau đây là những ý kiến của giáo sư về các vấn đề đặt ra trong cuộc tọa đàm, qua lời phiên dịch của nhà thơ Bằng Việt, do Hoàng Phủ Ngọc Tường ghi lại.

Lev Nikolayevich Tolstoy (9/9/1828 - 20/11/1910) - Ảnh: wikipedia


T
rong không khí hợp tác văn hoá giữa hai dân tộc, cho phép tôi đặt câu hỏi: bản thân mỗi người chúng ta làm gì để góp vào sự hợp tác gắn bó ấy? Chúng ta theo dõi nhau, đọc nhau như thế nào?

Học viện Gooc-ki đã 50 tuổi, có nhiều người đã tốt nghiệp ở đó như Xi-mô-nốp, Ep-tu-sen-cô, Ai-ma-tốp… Dân tộc Việt Nam trải 30 năm gian khổ giành độc lập. Nhưng sao trong suốt năm chục năm qua, tôi rất lạ không thấy một sinh viên Việt Nam nào đến học ở Gooc-ki trong khi ở đó có nhiều sinh viên các dân tộc thuộc thế giới thứ ba, cả các nước Mỹ la tinh nữa. Vì thế, cho phép tôi nói rõ mục đích của chuyến đi này của tôi ấy là từ điểm “chết” ấy, từ điểm không có sinh viên Việt Nam nào học ở đây, chúng tôi đang ký kết hợp tác với trường viết văn Nguyễn Du, trong đó có việc cử sinh viên Việt Nam sang học tiếp ở học viện Gooc-ki.

Việt Nam có một truyền thống văn học rất lớn, nhất là thi ca. Văn học hiện thực cũng có nhiều tác phẩm lớn. Nhưng chúng tôi hiểu biết còn ít. Đó chính là vấn đề dịch thuật. Cũng vì thiếu sự song hành giữa thực chất văn học và công tác dịch thuật: có khi người ta dịch các tác giả theo chức vụ chứ không dịch theo tài năng. Và do đó, chúng ta chưa hiểu thật đúng các tác giả tiêu biểu nhất của văn học mỗi nước, vậy phải làm thế nào để sự nghiệp dịch văn học không phải là đơn lẻ, mà phải có tổ chức. Bên tôi có một vài người dịch Việt Nam có tên tuổi, như Ma-ri-an Tka-sốp. Lẽ ra phải có tổ chức, và nhiều người dịch khác. Tất nhiên không thể một lúc có nhiều Ma-ri-an được. Chúng tôi phải phấn đấu để cho có nhiều tài năng về dịch thuật.

Tôi nói thật, tôi không hiểu biết gì mấy về nền phê bình Việt Nam, thậm chí không biết có tồn tại một nền phê bình như thế không. Ngược lại, các bạn Việt Nam có thể cũng không biết những người phê bình Liên Xô đang nghĩ gì. Vừa rồi, nhà nước Liên Xô đã đặt giải hàng năm cho ngành phê bình, đó là việc trước đây chưa từng có. Ở đây, Đảng chúng tôi cho rằng phê bình không phải chỉ là cho riêng nhà văn, mà là công việc cho toàn xã hội; phê bình phải đi trước chứ không phải đi bên cạnh, đi kề nhà văn.

Thí dụ như về nhân vật lý tưởng: bây giờ người ta phủ nhận một mẫu người như thế (mẫu người không sai lầm, để có thể nêu gương cho người khác) trong văn học. Hiện thực văn học Liên Xô hai mươi năm qua cho thấy không thể bắt văn học theo một hướng hình thức nào cả. Dĩ nhiên, văn học phải dựa trên cái có thực, cái sự kiện, không phải dựa trên cái nhìn ốm yếu của một người nào đó. Trong suốt thời kỳ, văn học Xô Viết bao giờ cũng hướng đến trọng tâm: nhân đạo, nhân cách con người, lương tâm v.v… Nhân dân chúng tôi cũng nhiều lúc phải chiến đấu bằng vũ khí để giữ tự do của mình. Sau chiến tranh, nhân dân phải khôi phục lại những đổ nát, và bốn mươi năm nay chúng tôi sống trong hòa bình. Nghèo đói thì đã vượt qua, chúng tôi đã thoát khỏi cái đó. Bây giờ đi đến thử thách mới: phải vượt lên sự thừa thải vật chất, để sự thừa thải ki khỏi làm hư hỏng chủ nghĩa xã hội. Thực tế, có những người sống ở nhà mình giống như tư sản, không phải là xã hội chủ nghĩa. Đời ông cha sống nghèo khó, thì đời con nay đã sống sung sướng: trong anh ta, vật chất và tinh thần đã lẫn lộn, của cải, tài sản đã chiếm chỗ một cách nặng nề. Một lần nữa, bắt buộc chúng tôi suy nghĩ lại: bản chất cách mạng là gì? Văn học trong tư thế xã hội chủ nghĩa, phải trả lời những câu hỏi. Như vậy, vì rằng cũng có một số vấn đề tương tự đã vọng đến ta từ thế kỷ XIX, từ trong những tiểu thuyết vĩ đại của Tônxtôi, Đốt-xtôi-ep-xki. Nhất là Đôt, trong “Đầu xanh tuổi trẻ” và trong “Anh em Ka-ra-ma-dốp”. Có một đoạn đối thoại trong “Đầu xanh tuổi trẻ” đại để như thế này: Hôm nay tôi ngồi trên thảm bằng nhung, ngày mai trên đệm nỉ. Sau đó sẽ là cái gì? Và ngày mai, ngày kia, chúng ta sẽ ngồi trên cái gì quý hơn nữa! Nếu của cải như vậy mà cái xấu không tiêu tan đi, thì không dễ gì thu về tiến bộ xã hội trên sự giàu có vật chất! Và vấn đề tức là phải đặt song song nhau giữa sự xây dựng những của cải vật chất và tinh thần, cùng một lúc và đấy chính là nhiệm vụ nhà văn; con người cộng sản phải nghĩ gì về của cải tinh thần, chứ không phải đuổi theo vật chất kiểu phương Tây. Không hẳn rằng chúng tôi đã giàu có, nhưng thực tế là chúng tôi không phải như trước kia.

Nhưng không phải đợi đến giàu sang, mà chỉ dư dật đôi chút như thế này, thì chúng tôi đã thấy phải đặt vấn đề làm sao để chống ô nhiễm về tinh thần; mình phải dâng cho đời hơn là tìm cách cướp giật lại của xã hội. Đó là những vấn đề đang được nêu ra trong tác phẩm của Rat-xpu-tin, Suc-sin, Bê-lốp, Ai-ma-tốp với cuốn sách mới là “Và một ngày dài hơn thế kỷ”. Còn nữa, I-u-ri Bôn-đa-rép, và một số nhà văn Gru-đia như Đom-bat-dê; một số thôi chứ không phải là nhiều, vì tài năng thì không có đâu cho nhiều. Cũng nhắc đến nhà thơ trẻ là Vôt-net-xen-xky thế hệ mới đang trưởng thành.

Tôi chỉ nói một số ý nghĩ của tôi, chứ không muốn là cái loa qua đồng chí Bằng Việt. Từ lâu có cái chân lý này, là sự thật trong nghệ thuật chỉ có khi nhà văn nắm được suy nghĩ bằng đối thoại. Bởi vì nếu nhà văn chỉ nói cái mà mình tin thôi, mà không chịu lật đi lật lại, thì không thể có được chân lý, nhà văn nào chỉ nói một nửa sự thật mà dám khoác áo sự thật, đánh bóng con người, thì sự giả dối ấy bao hàm sự hạ thấp phẩm cách của độc giả của anh ta và của chính bản thân anh ta. Nguyên tắc của chủ nghĩa lạc quan là ở chỗ chúng ta dám tuyên bố rằng cái xấu này là xấu, nói tự nhiên như ở trong nhà chúng ta, để cho mọi người đều nghe thấy. Nhưng có kẻ lại muốn nói rằng trong xã hội tất cả đều tốt cả, và đó là chủ nghĩa bi quan thảm thiết nhất. Vì anh ta nghĩ đằng sau anh ta sẽ là nạn hồng thủy, và vì thế tất cả cần phải bịt mắt lại.

- Về thơ - Có một thời của thơ và một thời của văn xuôi. Trong mười năm trở lại đây, nền thơ Xô Viết đã mất đi một số nhà thơ lớn. Còn một số tác giả trẻ như Ep-tu-sen-cô vẫn có một diễn đàn lớn, nhưng bây giờ hứng thú trong độc giả đã khác trước. Đã có một thời, thơ như là một diễn đàn lớn diễn tập kỹ cho mọi người đến nghe. Thơ Liên Xô đã hoàn thành sứ mệnh ấy trong những năm 1950-1960. Độc giả thời ấy bây giờ đã trưởng thành thành người khoảng bốn mươi tuổi. Tuổi ấy người ta phân hóa, mỗi người có một nhà thơ cho riêng mình, chứ không có tác giả trong toàn Nga, toàn liên bang; bởi vì thơ Liên Xô bây giờ đã bớt đi nhiều tính diễn đàn mà thủ thỉ, dịu dàng hơn. Chúng tôi có một số nhà thơ đang nổi tiếng. Họ không quan tâm đến cái bên ngoài lắm, mà đến nội tâm của thơ. Có một nhà thơ là V.Xô-cô-lốp, nhà thơ không giống Ep-tu-sen-cô một tí nào cả nhưng Ep-tu-sen-cô coi như bậc thầy; và có một nhà thơ khác được hâm mộ vì được xem như tái lập lại truyền thống Et-xê-nhin trong thơ Nga. Nói đơn giản là thơ bây giờ không đi ra quảng trường nữa, mà đi vào từng góc của tâm hồn, trong phòng riêng của mỗi người đọc. Và đó là ưu điểm hay là nhược điểm của thơ, tôi không biết. Tùy các bạn thử suy nghĩ xem…

E. XI-ĐÔ-RỐP
(8/8-84)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H

  • MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.