Mai Văn Hoan từ “Ảo ảnh” đến “Giếng tiên”

17:14 10/06/2009
NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

Nhà thơ Mai Văn Hoan lúc mới vào nghề

Thời buổi tự bỏ tiền in thơ này, hầu hết nhà thơ chỉ dám in 500 cuốn đã "toát mồ hôi hột" vì không bán hết, thế mà thơ Mai Văn Hoan in tập nào cũng 1000 cuốn, rồi tái bản thêm ngàn cuốn nữa, vẫn bán hết, mặc dù anh ít khi bán theo cách bắt ép các giám đốc doanh nghiệp hay thủ trưởng cơ quan phải bấm bụng mua, như nhiều tác giả thơ các tỉnh lẻ thường làm. Thơ Mai Văn Hoan thường gửi bán ở các nhà sách ở Huế, Đà Nẵng. Có khi vợ nhà thơ còn treo tòng ten thơ của chồng bên cạnh những gói lạc rang, mực nướng, bánh phồng tôm v.v... trong quán xép của mình ở bên đường Ngô Quyền - Huế. Thế mà cũng có rất nhiều người mua. Một điều lạ lùng nữa là hơn chục năm nay, thơ Mai Văn Hoan luôn được các bạn trẻ là sinh viên, học sinh đang tuổi yêu đương thuộc lòng và chép tặng nhau trong sổ tay học trò. Nhiều cô giáo dạy văn cũng mê thơ tình Mai Văn Hoan. Có cô còn cao hứng họa lại từng bài một sau khi đọc tập thơ Giai điệu thời gian của nhà thơ. Đám cưới nào có Mai Văn Hoan dự là người ta "bắt" nhà thơ phải đọc thơ! Nói theo chữ của các nhà phê bình thì thơ Mai Văn Hoan có độc giả, là thứ thơ có hiệu quả.

Tại sao thơ Mai Văn Hoan có nhiều người thuộc và nhiều người mua đọc? Đọc tập thơ chọn Giếng tiên, ta có thể cắt nghĩa được phần nào sự cuốn hút bạn trẻ của thơ Mai Văn Hoan. Trước hết, thơ Mai Văn Hoan là thơ làm để tặng, chứ không phải làm để khoe chữ nghĩa, cấu trúc hay làm để vô Hội Nhà văn! Gặp người đẹp mê thơ, thế là anh bị "hớp hồn", thậm chí không gặp người đẹp, chỉ nhận được những lá thư gửi từ "Quy Nhơn bé nhỏ" thôi, anh cũng tương tư đầy ắp cả một tập thơ! Gặp cái liếc mắt cũng thao thức suốt đêm làm bài thơ tặng. Tặng được rồi, được người đẹp khen rồi, lại thấy chưa đủ, lại thao thức làm thêm bài khác. Vì làm để tặng, để chinh phục trái tim người đẹp, nên thơ Mai Văn Hoan thường dùng lối tự sự, ngôn từ dân dã, dễ hiểu, đa số thơ anh viết theo lối bắt vần của thơ truyền thống như lục bát, năm chữ, bảy chữ...: Sao biển sẽ thay tôi / Ngắm nhìn em trang điểm / Sao biển sẽ thay tôi / Ngồi bên em trò chuyện... (Sao biển) (Để có bài thơ này, tác giả đã mang một cánh sao biển từ Huế, nhảy xe đò đi về hơn 1200 cây số trong hai ngày nghỉ cuối tuần để tặng sinh nhật người đẹp. Sống chết vì yêu, vì thơ như thế mới đáng đồng tiền bát gạo!). Chính vần nhịp bằng trắc đó là thứ bùa ngải giúp thơ dễ len vào cõi sâu kín hồn người. Để đạt được sự truyền cảm trực tiếp đến người đọc. Mai Văn Hoan rất chú trọng cấu tứ thơ. Thơ anh có tứ mạnh, tạo ra thích thú đối với người đọc. Ví dụ, bài thơ Ngọn gió và biển cả tả nhà thơ bị "tiếng sét ái tình": Tôi lặng đứng nhìn theo em xao xuyến / Như ngọn gió vừa đi qua mặt biển/ Biển trào lên những đợt sóng xô bờ. Ai cũng tưởng bài thơ sẽ kết thúc ở sự nhớ nhung, tiếc nuối, nhưng hình tượng thơ đoạn kết lại phát triển ngược lại, rất ấm áp tình đời:
                        Tôi đâu biết chính em là biển cả
                        Âm thầm trách tôi - Ngọn gió vô tình!

Các bài thơ Ngựa bất kham hay Phiên toà đặc biệt cũng được cấu tứ bất ngờ và có hậu như thế. Chữ nghĩa trong các bài thơ này của Mai Văn Hoan không có gì là đặc biệt cả, chỉ là một câu chuyện tếu trong tình yêu: - Hôm qua về khuya em bị mẹ la/ Nghe nàng nói chàng biết mình có lỗi... Nên Chàng lặng lẽ ra trước vành móng ngựa... Nàng trở thành "quan chánh án" nghiêm minh. Nhưng rồi họ lại quên mất "tội lỗi", lại thức khuya làm mẹ đợi vì "bị can" "chánh án" hôn nhau. Rồi tứ thơ được đẩy tới, bất ngờ vỡ ra thành một "chân lý" tình yêu không ai cưỡng được, làm người đọc thích thú:
                        Cả "chánh án" lẫn "bị can" đều biết mình có lỗi
                        E hôm sau phải lập lại phiên toà!

Có người cho rằng thơ Mai Văn Hoan dễ dãi, đơn giản. Theo tôi, đằng sau sự giản dị đó là một trái tim đa cảm, nồng cháy, là sự run rẩy trong từng câu thơ. Sự nồng cháy đó tạo ra những nhịp sóng điện từ lan truyền mà chỉ có những trái tim yêu của những người trong cuộc mới cộng cảm được: Chỉ cần một que diêm / Thế là thành ngọn lửa / Cớ sao em lần lữa / Điếu thuốc vẫn còn nguyên! (Điếu thuốc và que diêm). Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho rằng, thơ Mai Văn Hoan "có lực đẩy của ngọn gió tàng hình, mở ra cánh cửa giấu kín bao bí mật của tình cảm". Trong thơ tình Mai Văn Hoan có nhiều câu thơ ám ảnh người đọc như: Chính tôi cũng không ngờ / Yêu vầng trăng se giá (Trăng mùa đông); Họ biết đâu tượng đá chết hai lần (Tượng đá); Hoa vàng qua bướm vàng không nỡ đậu (Màu hoa ấy) v.v... Duy nhất Mai Văn Hoan có một lần rất tỉnh táo trong thơ, trái ngược với khí chất đam mê tửu sắc của anh, nhưng đó là sự tỉnh táo của một tình cảm hơn hơn tình yêu trai gái, là tình người. Câu thơ thật thà mà đọc lên thấy xót xa, đồng cảm:
                        Nên bây giờ tôi quyết định chia tay
                        Dẫu điều đó có làm em đau khổ
                        Tôi sẵn sàng chịu bao lời phẫn nộ
                        Để cứu em thoát địa ngục đời tôi
                                                            (Tự thú)

(Lần đầu tiên tôi thấy có người dùng thành công từ quyết định, một từ của hành chính ở trong thơ!). Thơ Mai Văn Hoan được các "nàng" cất giữ như của quý, vì trong từng bài thơ, câu thơ có tên tuổi từng người đẹp cụ thể, như: Cô bé HIỀN và THANH mảnh làm sao; PHƯƠNG ấy nhiều HOA sao tôi không biết; Đêm thầm gọi HỒNG NHUNG ơi!.Chiếc bình hoa anh cắm / Chỉ một nhành CÚC thôi v.v. và v.v.... (Những chữ in hoa là tôi nhấn mạnh để nhắc bạn đọc những tên NGƯỜI ẩn hiện trong thơ Mai Văn Hoan!). Đó là sự bí ẩn đằng sau mỗi câu thơ mà chỉ tác giả hay người được tặng thơ "bật mí", người viết bài này mới biết, nếu không họ sẽ cùng nhau mang xuống mồ!

Trong Giếng Tiên, ngoài mảng thơ tình, còn có một mảng thơ sâu sắc khác mà lâu nay bạn đọc ít gặp trong các tập thơ của Mai Văn Hoan. Đó là những bài thơ về đất nước, về thời niên thiếu của Bác Hồ ở trường Quốc Học, viết về cha, mẹ, bạn bè, về nhân tình thế thái, hay thơ thù tạc như các bài Người bước vào lớp học, Tìm mộ bài. Trước nhà tù Lao Bảo. Mộ gió, Phủ Tùng Thiện Vương, Trước mộ Trần Tế Xương, Thăm nhà thơ Xuân Hoàng, Viếng mộ Trịnh Công Sơn v.v... Dọc mảng thơ này mới hay, Mai Văn Hoan cũng luôn trăn trở suy tư chuyện đời. Năm 2000, do bức bách phải dời chỗ ở khỏi trường Hai Bà Trưng, vợ chồng Mai Văn Hoan phải vay gần trăm rưỡi triệu để dựng cái nhà hai tầng ở Trường Bia, gần núi Ngự Bình. Nợ nần đến giờ vẫn chưa trả hết, nhưng bù lại anh có bài thơ Độc tọa với Ngự Bình viết trên sân thượng ngôi nhà mới, rất khẩu khí: Xưa tiên thơ Lý Bạch / Độc tọa với Kinh Đình/ Nay ta lên sân thượng/ Độc tọa với Ngự Bình. Trong khuya, một mình, ngồi trầm ngâm như núi: Đó là dáng dấp của những bậc kẻ sĩ xưa đang nghĩ chuyện đời:
                        Một đời không luồn cúi
                        Chẳng vướng bận chức quyền
                        Chỉ trầm ngâm như núi
                        Rượu thơ với bạn hiền

Trong bài thơ ĐạoĐời tặng sư thầy MĐTTA ở Huyền Không Sơn Thượng, Mai Văn Hoan ngẫm về Đời và Đạo rất thâm trầm và nhân bản: Tôi ngụp trong cõi thế / Sư ở chốn Huyền Không / Ta chỉ là hạt bụi / Giữa đất trời mênh mông... Với từng cặp đối ảnh giữa đạo và đời, ý thơ đã chạm đến cõi vô vi trời đất: Thơ Thiền - sư thoát tục / Thơ tình - tôi đa mang / Thỉnh thoảng trên sách báo / Sư cùng tôi chung trang / Bây giờ mới gặp mặt / Danh đã biết lâu rồi / Không không và sắc sắc / Bên nhau đạo với đời. Vâng đạo với đời vẫn bên nhau, vẫn chỉ là một, ở ngay trong tâm của nhà thơ!

Mai Văn Hoan là thạc sĩ văn chương, anh rất am tường lý luận văn học, anh lại dạy các lớp chuyên văn của một trường chất lượng cao nổi tiếng của Huế: Trường Quốc Học, nhưng quan niệm về thơ của anh lại rất giản dị: Cứ ném thơ ra giữa cuộc đời, nếu nó là thơ thì nó sống, nếu không là thơ thì nó chết! Bài thơ viết trong quán cà phê anh viết tặng một người đẹp"... hồn nhiên như một bông cẩm chướng", nhưng chưa hề quen biết. Viết xong bài thơ, anh chép vào vỏ bao thuốc lá rồi bỏ lại trên bàn, chân cứ bước ngập ngừng khi đến cửa / Trên môi còn đắng ngọt vị cà phê. Thế mà bài thơ đã đến được nơi cần đến. Người đẹp đọc thơ rồi tìm đến anh, rồi hai người say nhau, tất nhiên anh lại có thêm nhiều bài thơ mới. Trong bài thơ Một lứa bên trời viết tặng bạn thơ đồng hương Lê Xuân Đố, Mai Văn Hoan cũng bộc bạch quan niệm của mình về thơ: Hiện đại hay cổ điển/ Siêu thực hay đa đa / Nếu trái tim lãnh cảm / Cũng vứt đi thôi mà / Cứ nói điều gan ruột / Hay, dở có thời gian / Mong sao đừng bỏ cuộc / Dù còn chút hơi tàn. Đúng là thơ phải có nơi đến, có hiệu quả thơ mới sống lâu với cuộc đời. Muốn thế người thơ phải sống chết với thơ. Đó là quan niệm, tất nhiên thơ Mai Văn Hoan không phải bài nào cũng hay, không phải bài nào cũng đến được trái tim độc giả như anh mong muốn. Thơ anh dân dã, thiệt thà, có khi nôm na trong câu chữ, nhiều khi nặng về diễn tả, không kiệm lời, nên những người thích thơ siêu thực hay trường phái cách tân, coi "làm thơ là làm chữ", làm thơ là làm cấu trúc, thì không thích. Đó là chuyện thường tình, vì mỗi nhà thơ có một đối tượng độc giả riêng của mình. Trộm nghĩ thơ làm cho con người gần nhau hơn, yêu nhau hơn đã là quý lắm rồi!

Cách đây mấy năm, Mai Văn Hoan đã có lần làm thơ tưởng tượng về một Ngày thi ca: Tôi là gã si tình không biết / Cái ngày nào là ngày của thi ca / Nhưng tôi tin đó là ngày rất tuyệt / Như cái ngày trời đất mới sinh ra (NGÀY THI CA). Tiên tri của anh đã thành hiện thực, khi Hội Nhà văn Việt Nam lấy ngày Rằm Nguyên Tiêu hàng năm làm NGÀY THƠ VIỆT NAM. Và lá cờ thơ đã được kéo lên trên nóc chiếc thuyền rồng sang trọng trên sông Hương linh ứng, đúng như ao ước của nhà thơ - nhà giáo Mai Văn Hoan!

Huế, Rằm Trung Thu, Quý Mùi
    N.M
(177/11-03)

--------------------------
(*) GIẾNG TIÊN - thơ Mai Văn Hoan, NXB Thuận Hoá, 2003.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒNG DIỆUTrương Mỹ Dung đời Đường (Trung Quốc) có một bài thơ tình yêu không đề, được nhiều nhà thơ Việt Nam chú ý.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.

  • NGUYỄN QUANG HÀTôi nhớ sau thời gian luyện tập miệt mài, chuẩn bị lên đường chi viện cho miền Nam, trong lúc đang nơm nớp đoán già đoán non, không biết mình sẽ vào Tây Nguyên hay đi Nam Bộ thì đại đội trưởng đi họp về báo tin vui rằng chúng tôi được tăng viện cho chiến trường Bác Đô.

  • LÊ HUỲNH LÂM(Đọc tập truyện ngắn “Thõng tay vào chợ” của Bạch Lê Quang, NXB Thuận Hóa, 11/2009)

  • LÊ VŨ(Đọc tập thơ Nháp của Ngọc Tuyết - NXB Thanh niên 2009)

  • NGÔ MINHÐọc lại Chiếu Dời đô, tôi bỗng giật mình trước sự vĩ đại của một quyết sách. Từng câu từng chữ trong áng văn chương bất hủ này đều thể hiện thái độ vừa quyết đoán dứt khoát với một lý lẽ vững chắc, vừa là một lời kêu gọi sự đồng thuận của triều thần với lời lẽ rất khoan hòa, mềm mỏng.

  • LÊ HUỲNH LÂMThơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.

  • KHÁNH PHƯƠNGNgay từ thuở cùng Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương viết tuyên ngôn Tượng trưng, Trần Dần đã mặc nhiên khảng khái công bố quan niệm, thơ bỏ qua những biểu hiện đơn nghĩa của sự vật, sự kiện, đời sống, mà muốn dung hợp tất cả biểu hiện hiện thực trong cõi tương hợp của cảm giác, biến nó thành không gian rộng lớn tiếp biến kỳ ảo của những biểu tượng tiềm thức. Như vậy cũng có nghĩa, nhà thơ không được quyền sao chép ngay cả những cảm xúc dễ dãi của bản thân.

  • NGUYỄN CƯƠNGSư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905 viên tịch năm 1997 hưởng thọ 93 tuổi. Lúc sinh thời Sư Bà trụ trì tại Chùa Hồng Ân, một ngôi chùa nữ tu nổi tiếng ở TP Huế, đã một thời là trung tâm Phật giáo ở miền Nam.

  • HỒNG NHU    (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)

  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬTĐọc xong tập sách do họa sĩ Phan Ngọc Minh đưa mượn vào đầu tháng 6.2009(*), chợt nghĩ: Hẳn, đã và sẽ còn có nhiều bài viết về tác phẩm này.

  • NGUYỄN HỮU QUÝ         (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.

  • LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.

  • MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.

  • SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.

  • CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.