Lời xông đất

16:06 05/03/2010
LÊ ĐẠTTình không lời xông đất để sang xuânTrước hết xin giải quyết cho xong một vấn đề đã được giải quyết từ rất lâu tại các nhà nước văn hóa phát triển.

Nhà thơ Lê Đạt - Ảnh: vietnamnet.vn

Chữ gồm hai phần: phần âm thanh (son) và phần nghĩa (sens)

Không một nhà thơ có chút ít theo đòi nghiên bút lại chủ trương vứt bỏ nghĩa.

Chữ không có nghĩa đơn thuần là âm thanh, không còn là chữ nữa.

Nhưng chữ có một quy chế phức tạp.

Nó thuộc loài lưỡng cư. Một nhà thơ già đã nói đùa: chữ có họ với loài ếch nhái.

Cùng một lúc chữ ở hai địa vực khác nhau với hai nhiệm vụ gần như dị ứng với nhau.

Chữ vừa có nhiệm vụ biểu thị (signifier) vừa có nhiệm vụ biểu hiện (exprimer)

Ở địa hạt biểu thị, nó được coi như một ký hiệu (signe) để phục vụ việc giao tiếp đơn thuần giữa con người.

Khi sống cuộc đời ký hiệu, chữ phải gạt bỏ phần máu thịt, sống động và phức hợp của vật thể để chỉ giữ lại phần đặc tính biệt phân của nó.

Con bò khác với con dê vì con bò kêu bò và con dê kêu be he v.v và v.v.

Mùa thu khác với mùa hạ vì mùa hạ là mùa thứ hai còn mùa thu là mùa thứ ba trong một năm bắt đầu từ tháng tám đến tháng mười dương lịch v.v và v.v.

Người sử dụng từ bò có thể chưa từng biết mặt con bò bằng xương bằng thịt như đám trẻ thành phố Lơnđơn đầu thế kỷ XX.

Người sử dụng từ thu chỉ cần chú ý đến điểm nó khác với mùa hè... cái xào xạc, heo may rải đồng, cái bâng khuâng “hồi ký lá vàng” của nó người sử dụng không cần biết.

Đặc tính của ký hiệu là phải đơn giản, rõ ràng minh bạch để tránh gây lầm lẫn

Khi vật thể bị biến thành ký hiệu mọi yếu tố không cần cho sự giao tiếp đều bị lược bỏ.

Nói theo các nhà ngôn ngữ học:

“Từ chó không sủa”.

Nhưng con người là một sinh vật phức tạp. Nó có một đời sống tâm lý rất khó kiểm soát. Khi sử dụng ký hiệu nó vẫn không quên được vật thể và hầu như không chịu sống thân phận một sinh vật thuần túy giao tiếp bằng ký hiệu.

Con người ít nhiều mang mặc cảm Từ Thức và những “khi tỉnh rượu lúc tàn canh” không khỏi “đê đầu” tư lường một cố hương chữ nơi nghìn trùng mây trắng với một nàng Giáng Hương buồn.

Những phần bị gạt bỏ của vật thể không cam phận mồ yên mả đẹp. Chúng vẫn quay về ám ảnh ký hiệu như những bóng ma.

Bất cứ một chữ nào cũng đều có phần ngày ký hiệu và phần đêm vật thể.

Bóng chữ có thể coi là phần tiền kiếp không được hóa giải của chữ. Nó như bóng con thuyền Trương Chi thiếu nợ hò khoan mãi lòng chén nước Mỵ Nương.

Các nhà tâm phân học gọi đó là cái bị dồn nén- Và cái bị dồn nén thường trở về.

Bóng chữ thiêm thiếp trong rừng chữ như nàng công chúa ngủ trong truyện cổ đợi nhà thơ đánh thức.

Chữ của nhà thơ thường ít khi ăn ngon ngủ yên mà luôn thao thức mất ngủ.

            Tiếng lạ kho đồ đạc cũ
            Âm ngữ vùng mất ngủ bạc đầu

Khi Sartre khẳng định “nhà thơ khước từ sử dụng ngôn ngữ” ông muốn nói rằng nhà thơ tuyệt đối không coi ngôn ngữ như một ký hiệu, một dụng cụ giao tiếp đơn thuần, nhà thơ nhẹ bận tâm đến phần biểu thị tự vị của chữ mà nặng lòng đến phần biểu hiện, đến diện mạo, giới tính, âm hưởng, độ vang vọng, sức gợi cảm quá khứ và tương lai của chữ trong tương quan hữu cơ với câu thơ, bài thơ và lịch sử thơ nói chung. Ta có thể nói nhà thơ canh cánh một bận tâm bóng chữ, nó chính là phần hồn của chữ.

Xin nêu một vài ví dụ:

Câu thơ của Mallarmé:

La chair est triste hélas! et J'ai lu tous les livres.

Có người dịch:

            Thú xác thịt mãi rồi cũng chán
            Thú đọc thơ cũng ngán lắm mà

Xét về mặt đơn thuần nghĩa tự vị, cùng lắm người dịch cũng chỉ bị phạt “vi cảnh” vì lỗi “xâm hại sự xấu hổ của chữ” nhưng đứng ở phương diện thơ thì phải kết án nặng vì tội “ngộ sát”, dịch giả vô tình đã giết chết một câu thơ.

Câu thơ chữ Hán được truyền tụng của Thôi Hạo:

            Đào hoa y cựu tiếu đông phong

Có thể dịch rất đơn giản và sát nghĩa:

            Hoa đào như cũ còn cười gió đông

hoặc sang hơn một chút:

            Hoa đào năm cũ còn cười gió đông

Làm sao Nguyễn Du lại dịch

            Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông

Chao ôi! tôi sẵn sàng đổi mấy chục năm đời mình để được cái chữ năm ngoái ấy.

Nó làm chuyển động cả câu thơ như một tia chớp lạ trên bầu trời thương nhớ, tiếc nuối đến mức phải đề bạt Nguyễn cấp đồng tác giả với họ Thôi.

Tôi bỗng nghĩ đến Gorki sau khi đọc một trang chữ cứ bâng khuâng soi mãi lên mặt trăng xem, phía sau những con chữ có gì mà kỳ lạ mà quyến rũ đến thế.

            Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha

Nghĩa tự vị có gì đâu mà ba trăm năm sau vẫn còn gió nổi trong lòng người một tương tư.

Cổ nhân nói: Người đẹp từ trang chữ bước ra. Nhớ Lý Trác Ngô tựa Tây sương ký: “Tấc lòng người đời nay gửi lại đời sau đáng thương biết mấy!”

Heidegger đã tỏ ra rất từng trải chữ khi nhận xét rằng ngôn ngữ vừa sống trên miếng đất hữu hạn của ký hiệu vừa sống trên miếng đất vô hạn của vạn vật của trời đất. Chữ vừa là công cụ giao tiếp vừa là “ngôi nhà của bản thể”.

Với tư cách là ký hiệu chữ càng phi cá tính càng công công càng tốt.

Với tư cách là hiện hữu chữ càng đậm đặc cá tính càng độc đáo càng tốt.

            Mỗi công dân có một dạng vân tay
            Mỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ

Trộn không lẫn.

Hãy so sánh:

            Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi...
            ...Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không


Rồi:

            Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông
            Tưởng rằng ốm dậy hóa ra không

Rồi:

            Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao...
            Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Cùng một tiếng Việt - Tiếng Việt trăm phần trăm mà khác nhau biết bao!

Rõ ràng là có một tiếng Việt Hồ Xuân Hương, tiếng Việt Tú Xương, tiếng Việt Nguyễn Du...

Đó chính là phần yêu nước của nhà thơ đóng góp vào kho ngôn ngữ quốc gia. Đó là từ khoản chỉ tệ mạnh riêng từng người trong ngân hàng chữ Việt.

Người làm thơ suốt đời hoạt động trong trạng thái giằng xé căng thẳng giữa định nghĩa và hàm nghĩa, giữa chữ và bóng chữ.

Gần định nghĩa quá thì câu thơ rõ ràng minh bạch nhưng có nguy cơ khô cứng, bẹt dí, vô hồn, văn vần.

Tha thẩn với bóng chữ ở vùng đêm, vùng hàm nghĩa có cơ may mở mang bờ cõi của chữ nhưng cũng có cơ nguy rơi vào bóng tối mịt mù của vô nghĩa.

Thời đại nào cũng có một số ít nhà thơ trời đầy tình nguyện hoạt dộng ở vùng giáp ranh này. Hãy thông cảm với họ. Họ chẳng đòi hỏi gì cả ngoài một số điều kiện tối thiểu để được yên ổn làm việc. Bản thân công việc của họ đã gian nan, vất vả lắm rồi, đừng gây thêm khó khăn trở ngại cho họ- Biết đâu họ chẳng thăm dò được một vỉa quặng quý nào đó cho ngôn ngữ của đất nước. Nếu họ thất bại thì sự không may của họ chi ít cũng có thể giúp ích người khác đỡ thất cơ lỡ vận như họ và biết đâu chẳng giúp người khác cơ may thành công.

Tôi muốn các bạn nghe lời tâm sự của một nhà thơ lớn người Pháp, người được coi là một những công binh mở đường cho nền thơ hiện đại thế giới Apollinaire:

            Chúng tôi không phải kẻ thù các anh
            Chúng tôi muốn tặng các anh những vùng đất mênh mông kỳ lạ...
            Hãy thương chúng tôi, những người lính chung thân biên giới
            Của vô cùng và của tương lai
            Hãy thương điều chúng tôi sai, thương điều chúng tôi lầm lỗi...

Những câu thơ khai bút thế kỷ XX tưởng đâu những lời xông đất thế kỷ XXI.

L.Đ
(132/02-2000)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Ngôn ngữ văn học luôn mang dấu ấn thời đại lịch sử của nó. Đồng thời, thông qua ngôn ngữ tác phẩm người đọc có thể đánh giá được khả năng sáng tạo và phong cách sáng tác của người nghệ sĩ. Văn học Việt Nam từ sau 1975, đặc biệt là sau Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã có những đổi mới mang tính đột phá trên mọi phương diện, trong đó có ngôn ngữ. Viết về đề tài lịch sử trong bối cảnh mới, các nhà văn sau 1975 không chịu núp mình dưới lớp vỏ ngôn ngữ cũ kĩ, khuôn sáo như trước.

  • Nếu có thể nói gì về tình trạng ngày càng thưa vắng các tiểu thuyết đọc được hôm nay, hay nói một cách chính xác hơn là sự vắng mặt của tiểu thuyết hay trong vài thập kỷ qua, theo tôi trước hết đó là vấn đề tâm thể thời đại

  • ĐINH XUÂN LÂM      (Hướng về 1000 năm Thăng Long - Hà Nội)Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh sinh ngày 19 tháng 07 năm Quý Tỵ, niên hiệu Minh Mạng 14 (1833) tại xã Chân Mỹ, tổng Từ Vinh, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn Trực Mỹ, xã Yên Cường, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).

  • HOÀNG TẤT THẮNG1. Khái quát về địa danh học.

  • NGUYỄN HOÀNG ĐỨCKhông có một xã hội nào sống và phát triển được nếu không cậy trông vào khả năng phê bình của chính mình. Nói một cách thật dễ hiểu, như người Pháp khẳng nhận: "Người ta dựa trên những gì chống lại mình".

  • PHONG LÊ      (Tiếp theo Sông Hương số 250 tháng 12-2009 và hết) Sau chuyển đổi từ sự chia tách, phân cách đến hội nhập, cộng sinh, là một chuyển đổi khác, cũng không kém tầm vóc: đó là từ cộng đồng sang cá nhân; với một quan niệm mới: cá nhân mạnh thì cộng đồng mới mạnh; cá nhân được khẳng định thì sự khẳng định vai trò cộng đồng mới được bảo đảm.

  • ĐÀO THÁI TÔNNhư chúng tôi đã có lời thưa từ bài báo trước, trong Thơ quốc âm Nguyễn Du (Nxb Giáo dục, H, 1996), thay vì việc xem "bản Kinh" của Truyện Kiều là bản sách in bởi vua Tự Đức, Nguyễn Thạch Giang đã viết đó chỉ là những bản chép tay bởi các quan văn trong triều. Điều này là rất đúng.

  • PHẠM QUANG TRUNGHiện giờ báo chí chuyên về văn chương ở ta đã phong phú và đa dạng. Riêng Hội Nhà văn đã có các báo Văn nghệ, Văn nghệ dân tộc và miền núi, Văn nghệ Tre, và các tạp chí Tác phẩm mới, Văn học nước ngoài.

  • LÊ ĐẠT     Cầm tên em đi tìm

  • VŨ NGỌC KHÁNH        (Trích tham luận: “Thử bàn về minh triết”)

  • LTS: Thế giới đang xuất hiện trào lưu phục hưng minh triết sau một thời gian dài chối bỏ. Ở Việt cũng đã hình thành Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh Triết thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt . Tiếp theo cuộc Hội thảo lần thứ I tại Hà Nội “Minh triết - giá trị nhân loại đang phục hưng”, cuối tháng 11.2009 tại Huế, Trung tâm đã tổ chức Hội thảo với chủ đề “Minh triết Việt trong tiến trình lịch sử văn hóa Việt”.

  • Giấy dó là sản phẩm thủ công của cha ông ta để lại. Xưa kia làng Bưởi có nghề làm giấy dó nổi tiếng. Giấy dó được dùng vào việc ghi chép văn bản chữ Hán nôm, viết bút lông mực tàu...

  • Sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật- dù ở đâu, thời kỳ lịch sử nào cũng vậy- thường phụ thuộc vào 3 nhân tố quan trọng và phổ quát nhất: Sự phát triển của khoa học và công nghệ; Những chính sách chính trị (trong đó bao gồm cả những chính sách về văn hóa và nghệ thuật); Những nhà tư tưởng và nghệ sỹ lớn.  

  • TRẦN HUYỀN SÂMClaude Lévi-Strauss là một trường hợp hiếm thấy và khó lặp lại trong lịch sử nhân loại. Lévi chính là một cú sốc đối với nền văn minh phương Tây. Lý thuyết của nhà cấu trúc học vĩ đại này là sự hạ bệ hùng hồn nhất đối với tư tưởng thống ngự và độc tôn của xã hội toàn trị châu Âu; và là sự biện minh sâu sắc cho một mô thức đa văn hóa của nhân loại.

  • LÊ THÀNH LÂNTrong 4 năm liền, Tào Mạt lần lượt cho ra đời ba vở chèo tạo nên một bộ ba chèo lịch sử với tiêu đề chung là Bài ca giữ nước, đều do Đoàn Nghệ thuật Tổng cục Hậu cần dàn dựng và đều được nhận những giải thưởng cao.

  • PHONG LÊĐó là: 1. Từ sự phân cách, chia đôi của hai thế giới - địch và ta, chuyển sang hội nhập, cộng sinh, có nghĩa là nhân rộng hơn các tiềm năng, cũng đồng thời phải biết cách ngăn ngừa, hoặc chung sống với các hiểm họa. 2. Từ cộng đồng chuyển sang cá nhân, cá nhân trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển, nhưng cá nhân cũng sẵn sàng nổi loạn cho các ước vọng thoát ra khỏi các chuẩn mực của cộng đồng. Và 3. Từ phong bế (ở các cấp độ khác nhau) đến sự mở rộng giao lưu, hội nhập với khu vực và quốc tế, với sự lưu tâm hoặc cảnh báo: trong đi tắt, đón đầu mà không được đứt gẫy với lịch sử.

  • ĐỖ HẢI NINH(Nhân đọc tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng. Nxb Phụ Nữ, H, 2009; tác phẩm nhận giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2009)

  • PHẠM QUANG TRUNGHiện nay, vấn đề đổi mới thi pháp đang được nhiều người cầm bút quan tâm. Xin ghi lại cuộc trao đổi mới đây giữa tôi (PQT) với một nhà văn (NV) về vấn đề bức thiết này.

  • (Theo bách khoa thần học New Catholie)THẨM GIÁ PHÊ BÌNH Việc thiết định giá trị phán đoán trong phê bình đã được kiểm thảo một cách nghiêm khắc trong thế kỷ XX. Chẳng hạn, người ta cho rằng phê bình đã vượt lên cả tầm vóc “viên đá thử vàng” trong việc thẩm giá hội họa để dẫn dắt thị hiếu thưởng thức hội họa của công chúng.

  • NGUYỄN ĐĂNG MẠNH(Kỷ niệm 70 năm ngày mất nhà văn Vũ Trọng Phụng 1939 - 2009)Trong lĩnh vực văn chương, tác phẩm không hay, không có giá trị nghệ thuật thì chỉ là con số không, chẳng có gì để nói, để bàn. Người viết ra nó, dù cuộc đời có ly kỳ thế nào, người ta cũng chẳng quan tâm.