Lời đề từ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

15:30 09/06/2008
1. Trước khi có cuộc “Đối thoại với Cánh đồng bất tận” trên báo Tuổi trẻ tháng 4. 2006, Nguyễn Ngọc Tư đã được bạn đọc biết đến với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi XX (lần 2) năm 2000, được tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2000, giải B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001…

Nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư

Nhưng quả là đến cuộc “Đối thoại…”, chị trở thành một hiện tượng văn học đáng chú ý, một sự kiện văn học hy hữu trong lịch sử văn học nước ta, thể hiện tinh thần dân chủ hoá của thời kỳ đổi mới và hết sức tập trung, đến mức chỉ trong một thời gian ngắn, báo Tuổi trẻ đã nhận được 868 ý kiến gửi về tham gia diễn đàn, trong đó có 855 ý kiến khen và chỉ có 13 ý kiến chê.
Nhìn chung, cả khen và chê tác phẩm Cánh đồng bất tận đều theo tư duy kiểu cũ, đều lấy hiện thực đời sống làm thước đo, làm tiêu chuẩn để đánh giá tác phẩm. Người chê, phản đối tác phẩm thì cho rằng những chi tiết, nhân vật, vấn đề trong tác phẩm đều không thể có trong hiện thực đời sống, chủ yếu đó là ý kiến của những người làm công tác chính trị. Ông Vũ Bình Lương, Phó phòng bảo vệ chính trị Công an tỉnh Cà Mau, cho rằng: “Tôi không thích Cánh đồng bất tận. Câu chuyện về mối quan hệ gia đình, cha con trong truyện phản ánh không đúng cuộc sống, tâm tư người dân Cà Mau. Cả về những tội ác trong truyện cũng rất hoang đường” (1). Thậm chí, có người nâng lên tầm khái quát cao hơn: “Những chuyện mà cô kể không còn là chuyện của cánh đồng nữa, tôi nghĩ: đó là “vũng lầy bất tận” thì đúng hơn. Mọi thứ cho nhân xưng “tôi” cố ý xuyên tạc bằng trí tưởng tượng nhồi nhét, bằng thao tác lượm lặt và một mặc cảm về tính giao bệnh hoạn. Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư tất cả đều dâm ô hết” (2). Đến nỗi, người có trách nhiệm cao như ông Dương Viết Thắng, Trưởng ban tuyên giáo tỉnh uỷ Cà Mau, cũng đã kết luận gay gắt: “Chúng tôi cho rằng tác phẩm này không có tác dụng giáo dục xã hội, giáo dục con người. Tôi không viết văn chương nhưng tôi biết chức năng của văn học là chức năng giáo dục và định hướng. Mặc dù mặt trái của thị trường có cái xấu, cái xuống cấp nhưng đa số vẫn tốt. Nói vậy để con người có niềm tin lạc quan hơn với cuộc sống” (3)
Ở phía đa số, những người khen Nguyễn Ngọc Tư cũng lấy hiện thực đời sống làm tấm gương phản chiếu, bởi “đó là sự chân thực, đôn hậu, trong sáng toả ra từ những gì cô viết” (4). Lê Phú Khải là người có chú ý nhiều đến giá trị hình tượng nghệ thuật hơn, nhưng cũng không thoát khỏi hệ quy chiếu từ tấm gương hiện thực: “Bằng hình tượng văn học, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư đã viết về một mảng tối còn hoang sơ của đồng bằng. Đánh tiếng chuông cảnh báo. Nếu bảo rằng phải có cả cái tốt, cái xấu cho “cân bằng” trong một tác phẩm thì văn học đâu phải là thuốc bắc mà cần phải có đủ vị” (5). Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, người kết luận cuối cùng cho cuộc tranh luận, cũng từ quan niệm hiện thực hay không hiện thực mà luận giải có tính bào chữa cho tác giả: “Đây là một truyện ngắn, không phải là bài báo hay bút ký, không có luật nào buộc nó phải đúng sự thật một trăm phần trăm. Ở đây tác giả có quyền hư cấu, có quyền sáng tạo nên một không gian nghệ thuật của riêng mình. Trong văn học, quyền sáng tạo, trí tưởng tượng của nhà văn phải được tôn trọng một cách tối đa. Và Tư đã làm được điều đó rất tuyệt vời” (6)
Như vậy, sự khen - chê đều xoay quanh vấn đề nội dung, vấn đề hiện thực và hư cấu, mà không căn cứ vào văn bản ngôn từ để lý giải vì sao, bằng quan niệm nào mà tác giả viết như thế và cách viết ấy tạo được hiệu ứng thẩm mỹ như thế nào? Một trong những đặc điểm nghệ thuật nổi bật của Nguyễn Ngọc Tư, thu hút đông đảo người đọc, đó chính là những yếu tố nằm ngoài cốt truyện, mà chủ yếu là những yếu tố thuộc về thi pháp hình thức độc đáo như cách đặt tên tác phẩm, tên nhân vật, lời đề từ, đề tặng, những đoạn trữ tình ngoại đề, hình thức trình bày tác phẩm… Ở đây, tôi chỉ xin khảo sát một trong những yếu tố đó (chủ yếu là thông qua Cánh đồng bất tận), là lời đề từ trong tác phẩm văn xuôi.
2. Lời đề từ là “thành phần nằm ngoài văn bản tác phẩm, được viết ở đầu sách hoặc sau tiêu đề mỗi chương trong cuốn sách nhằm hướng người đọc vào ý đồ nghệ thuật của tác giả hoặc tư tưởng của tác phẩm” (7). Các tác phẩm trữ tình hay sử dụng lời đề từ cho cả tập sách, như lời đề từ cho Nhật ký trong tù là bài thơ in ở bìa sách:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao

Có thể nói, đó là cảm hứng chủ đạo của toàn bộ tập thơ, thể hiện tư tưởng - chủ đề của tác phẩm, là người tù – người tự do. Các bài thơ trong tập, dù nhiều bài không nhắc đến tự do, nhưng vẫn cứ bàng bạc tư tưởng ấy trong toàn bộ tác phẩm. Các tác phẩm nghiên cứu phê bình, thường sử dụng lời đề từ cho mỗi chương như Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Phan Cảnh, Chân trời có người bay của Đỗ Lai Thuý… Nguyễn Ngọc Tư là một trong số người hiếm hoi sử dụng lời đề từ cho văn xuôi tự sự. “Trong tập tản văn Sống chậm thời @ một nửa là của chị và tác phẩm nào chị cũng đưa ra lời đề từ như dấu ấn sâu đậm khắc ghi trong lòng độc giả và đó dường như cũng là nỗi day dứt lớn nhất trong chị” (8). Cánh đồng bất tận gồm 14 truyện, thì có 11 truyện được tác giả sử dụng lời đề từ. Theo cách trình bày, do yêu cầu các truyện đều phải bắt đầu từ trang lẻ, trong khi đó ba truyện Thương quá rau răm, Huệ lấy chồng, Dòng nhớ, các truyện đặt trước đều kết thúc bằng các số trang chẵn, không có trang trống nên không có lời đề từ. Thực ra, tác giả hoàn toàn có cách trình bày khác, đồng thời khi đọc lời đề từ của các truyện còn lại mới thấy hết giá trị nội dung của tác phẩm. Ở đây, lời đề từ có thể là một danh ngôn, một đoạn trích từ kinh Phật, một câu hát dân gian, hoặc đôi khi chỉ là một ý nghĩ bâng quơ, nêu một sở thích ngộ nghĩnh, hoặc một đoạn tự sự tồn tại song song với truyện… nhưng tất cả đều có thể vận vào, đều thể hiện chiều sâu của tư tưởng, là một phần bổ sung không thể thiếu cho văn bản tác phẩm, góp phần tạo nên sự toàn vẹn của chỉnh thể, thực chất là một bộ phận của chỉnh thể tác phẩm, thể hiện ý đồ sáng tạo của tác giả và tư tưởng - nghệ thuật của tác phẩm, cần phải được lưu ý xem xét, nếu bỏ qua, hoặc bỏ sót sẽ không khám phá hết giá trị nội dung của tác phẩm.
Truyện Cải ơi! có lời đề từ sau: “Mỗi lần nghe câu hát “Gió đưa cây cải về trời. Rau răm ở lại…”, tôi hơi quạu, ông bà mình quá hiền lành đi, thí dụ có bị phụ phàng, thì cũng có chanh chua, hằn học một tí. “Gió đưa thằng quỷ sứ về thành. Để tôi ở lại chành ành…đắng cay”. Đau, tức vậy mà trách cứ nhẹ hều… Dường như người ta vẫn yêu, đến mức không thể giận dỗi, nặng lời. Và mình thì chưa bao giờ yêu ai đến như vậy?!!!” (9). Đó là nỗi oan của ông già Năm Nhỏ, bỏ nhà đi tìm đứa con riêng của vợ, tên là Cải. Từ năm mười ba tuổi, khi đi chăn trâu, vì ham chơi, đôi trâu lạc mất, Cải sợ bị đòn không dám về nhà, ông già Năm bị vợ và bà con lối xóm nghi là đã xua đuổi, thậm chí đánh chết Cải rồi vùi xác ở đâu đó. Hơn mười hai năm ông đi tìm, ông xin làm chân sai vặt cho đoàn ca múa nhạc, để trước giờ biểu diễn, ông lên thông báo tìm con: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè con”; rồi ông đẩy xe kẹo kéo đi bán, cố tình vi phạm pháp luật như lấn chiếm lòng lề đường để bị phạt, ăn trộm trâu để bị bắt, được đưa lên ti vi, cũng chỉ để được gọi hai tiếng “Cải ơi…”. Ở truyện Một trái tim khô, lại được mở đầu dòng tự sự bằng những câu hát sướt mướt để đối lập với hành động phi nhân thuê người giết vợ: “Dạo trước, hồi chưa có phong trào nhạc “Sáng sáng anh uống cà phê. Tối tối anh uống cà phê...” hay “ở bên người ấy xin đừng nhớ đến tôi, ở bên cạnh tôi xin đừng làm khổ tôi…”, mấy chiếc xe kẹo kéo, khoai mì luộc hay mở bản nhạc như vầy “Một trái tim khô, một trái tim mùa đông. Trái tim đã nhiều lần, nhiều lần chạy trốn tình yêu. Suốt đời tôi mãi mãi là người đến sau…”, nghe cũng hay hay / Mà hơi mắc cười, tình yêu, ai cũng khoái, sao cha nội nầy đòi chạy trốn?!” (tr.144). Đây là truyện có nhiều tình tiết éo le, hấp dẫn như truyện hình sự. Truyện xuất sắc nhất trong tập là truyện ngắn có dung lượng tiểu thuyết Cánh đồng bất tận, vốn ít nhiều thể hiện tư tưởng nhân quả của nhà Phật, chị dẫn ngay kinh Phật làm đề từ: “Tôi hiểu biết về Phật giáo không nhiều, vớ được quyển sách nào thì đọc cái ấy. Cũng có điều hiểu được, học được, làm được, nhưng nhiều điều buộc phải “bó tay”. Ví dụ như mấy lời này: “Khi nào bạn bực tức, giận dữ, hãy bất động! Ngay tại đó! Đừng cử động! Đừng làm gì cả! Đừng nói gì - dù chỉ một lời. Hãy yên lặng và bất động hoàn toàn. Tuyệt đối không biết gì đến kẻ hoặc sự việc làm cho mình giận dữ” (Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương - Tỳ kheo VISUDDHÀCÀRAZ). Trời ơi, mình giận muốn chết, muốn gào thét, muốn cào cấu, muốn đập phá mà không cho mình nhúc nhích, sao có thể hả hê? Đạt được đạo mới khó làm sao…” (tr.154).
Ở một truyện khác, truyện Mối tình năm cũ, có lời đề từ ngắn gọn mà sâu sắc: “Chiến tranh, theo tôi hiểu, có nhiều người nhói đau khi nhắc về nó / Những huân chương, huy chương chỉ làm ấm ngực, niềm đau khuất ở một góc lòng, có kẻ nhìn thấy, có người không” (tr.72). Đó là câu chuyện của ông Mười yêu và lấy dì Thấm là vợ liệt sĩ Nguyễn Thọ nổi tiếng trong chiến tranh, vì muốn vợ dứt ra khỏi mối tình năm cũ, ông đã đem bốn mươi chín bức thư tình ra đốt, làm cho đứa con riêng của vợ giận bỏ về nhà ngoại ở, khi đoàn làm phim về liệt sĩ Nguyễn Thọ đến nhà ông không cho vợ tiếp, vì sợ khơi lại chuyện cũ vợ buồn, thế mà mọi người không hiểu, ai cũng trách cứ ông. Lời đề từ như một ẩn dụ của nội dung câu chuyện. Cũng viết về những số phận sau chiến tranh, trong Biển người mênh mông mỗi người mỗi cảnh ngộ trớ trêu: cha Phi tham gia kháng chiến, mẹ ở nhà bị giặc làm nhục sinh ra Phi, khi cha mẹ đoàn tụ anh trở thành kẻ lạc loài, bỏ học theo đoàn hát, gặp già Sáu Đèo, gần bốn mươi năm đi bán vé số khắp các hang cùng ngõ hẻm, để cố tìm lại người vợ đã bỏ nhà đi, tác giả lại dẫn dắt bằng một lời đề từ khái quát, đau xót hơn, trong nỗi cô đơn đến da diết, riết róng của phận người: “Ngày ngày kẹt giữa đám đông, chen chúc trên những con đường đông nghịt người, nhiều khi tôi giật mình, trời ơi, họ kia, đồng loại mình kia, sao mình lại cô đơn đến rã rời…/ Lúc ấy, tôi có một cảm giác kỳ lạ, chỉ mình trên đời này, chỉ một mình… Chẳng ai là tri âm, chẳng ai cả…”(tr.98). Khác với những truyện trước, lời đề từ truyện này như phần mở đầu cho câu chuyện, là một bộ phận của truyện, nếu thiếu nó, truyện mất đi phần mở đầu trong phương thức tự sự của tác giả. Tương tự, ở Cái nhìn khắc khoải, được mở đầu bằng lời đề từ: “Một ngày khác thường của tuổi hai mươi - tuổi bè bạn, tuổi vui chơi, tôi lùa mười sáu con vịt - một trong những gia tài của má tôi - ra đồng, mưa đầm đìa vào mùa. Tôi thường ngồi ở bờ ruộng, mắt trông chừng bầy vịt, không cho chúng lân la đến những đám mạ muốt xanh, và da diết thèm người, thèm được nói chuyện / Bây giờ, quay quanh tôi bao nhiêu là người, tôi lại thèm cảnh đồng nước vắng tanh…” (tr.48). Những số phận trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư, là những con người sống giữa mọi người, không cô đơn nhưng lại cô độc, con người cá thể với những ý thức cá nhân không được đầy đủ. Một ông lão chăn vịt, trước đã từng tham gia chiến tranh, khi trở về vợ đã bị chết vì đạn pháo, sống một mình giữa bầy vịt, nhặt được một người phụ nữ bị chồng bỏ rơi đưa về chăm sóc, rồi tìm nơi chồng cô ta ở để chỉ đường cho cô ta tìm đến, còn mình chỉ ngoái nhìn theo với cái nhìn khắc khoải. Hầu hết những con người trong truyện đều có đời sống nội tâm phong phú, có lương tâm, có nhân phẩm, sống lặng lẽ, không phô bày tâm trạng.
Cũng là những mối tình thầm lặng, kín đáo, nhưng ở Nhà cổ được diễn đạt theo một hướng khác: “Tôi thích những mối tình câm, tình thầm. Tôi tưởng tượng đó là những mối tình da diết, sâu sắc. Mãi mãi chẳng dám nói thật lòng, cho đến cuối đời, tình ấy vẫn bàng bạc, rập rờn, và mỗi khi có dịp (như đi qua chỗ ngồi cũ, con đường cũ, gương mặt cũ…), ta bỗng thấy nhói ran / Chắc là khó chịu lắm, khi yêu mà giả bộ không yêu, khi buồn cố diễn mặt vui, khi đau tình phải tỏ ra vô tình…” (tr.62). Đó là mối tình giữa anh em Tứ Hải, Tứ Phương với Thể. Phương nhường Thể cho anh, để suốt đời đau khổ, mà không hề hay biết cô hàng xóm Út Nhỏ cũng thầm yêu…
Nhiều truyện, lời đề từ được dẫn dắt một cách dài dòng, như là một câu chuyện bổ sung, tồn tại song song bên cạnh tác phẩm, vừa góp phần làm nổi bật tư tưởng - chủ đề của tác phẩm, vừa như một đoạn trữ tình ngoại đề thổi vào không gian tâm tưởng của người đọc những day dứt khôn nguôi. Trong 23 chương của tiểu thuyết Paris 11 tháng 8 của Thuận, tác giả người Việt sống tại Pháp, không có chương nào là không sử dụng lời đề từ, cái ngắn nhất là gần một trang sách, có cái dài hơn ba trang sách, nó tạo nên sự dồn nén thông tin, lần giở từng trang sách, người đọc cảm nhận được cái sức nặng của đời sống hiện dại. Nguyễn Ngọc Tư cũng đã làm được điều ấy trên cái nền của đời sống đồng bằng bộ.
Cuối mùa nhan sắc kể về cuộc đời ông Chín Vũ, xuất thân là “công tử Bạc Liêu”, mê cô đào Hồng, bỏ nhà đi theo gánh hát làm chân kéo màn, giờ về già tập trung về nhà dưỡng lão “Buổi chiều”, đi bán vé số kiếm sống vẫn yêu tha thiết đào Hồng - nay đã trở thành bà lão. Trong khi đó đào Hồng lại yêu và có con với một người khác. Truyện có lời đề từ dài kín cả trang sách, là những ý nghĩ hết sức ngộ nghĩnh buộc người ta phải quan tâm: “Hồi nhỏ tôi có nhiều mơ ước kỳ cục lắm. Thí dụ như lớn lên tôi sẽ làm chủ tịch nước, hay lấy một ông già làm … chồng. Già như ông ngoại tôi vậy. Lúc nào cũng chậm rãi, cũng hiền hiền, cũng trầm lặng, cũng tràn đầy bao dung (một ông chồng giống như vậy đáng mong chờ lắm chớ bộ). “Ảnh hưởng” lớn nhất có lẽ vì ông luôn nhặt mấy cây sậy… giập để đánh khi tôi phạm lỗi, và dành cho tôi những con tép, con cua lớn nhất, trong chén luôn đầy ắp phần nạc của thịt, cá… Tôi nhớ, cứ đôi ba ngày, ông ngoại lại cứ nhấp nhổm cồng cồng trên chiếc xe đạp cũ hiện ra chỗ rẽ vào hàng dâm bụt trước nhà tôi. Ông hiện ra với dáng vẻ của một ông tiên không có phép thuật thần kỳ, nghèo, mắc đoạ. Mồ hôi chảy nhễ nhại trên gương mặt già nua, mồ hôi đầm đìa lưng áo, ông phèo phào vừa thở vừa cười nhìn đám cháu xúm xít lục lọi mớ đồ ăn trong giỏ ra. Những trái vú sữa, khế, mãng cầu… không khi nào còn nguyên vẹn do bị dằn xóc trên đoạn đường gần mười cây số nhưng với đám cháu nghèo, đó là tất cả nỗi vui / Những ước mơ ngày xưa như bong bóng lên trời nhiều khi vì lý do lãng xẹt. Lớn lên tôi nhận ra người già quá… nhăn nheo, không được… đẹp (trong khi có nhiều thằng con trai hấp dẫn, trắng trẻo, thẳng thớm phát mủi lòng) / Cũng tiếc lắm chứ, cái tình đằm thắm, sâu lắng của những người già. Hay là tôi thi vị hoá cuộc sống của họ, lo chiến đấu với tuổi tác, bệnh tật mệt muốn bứt gân, hơi đâu mà yêu iếc…?!” (tr.84). Nhớ sông viết về ba bố con ông Chín. Vợ chết đuối ở một đoạn sông, ba cha con suốt năm này qua năm khác gắn bó với sông, thương con ông cho đứa lớn lấy chồng lên bờ, nhưng vẫn cứ nhớ sông, đêm không ngủ được, lời đề từ dàn trải như một câu chuyện thứ hai: “Tôi thường đứng trên Gành Hào, nhìn về chợ nổi, ở đó có thể trông thấy một dãy ghe rập rờn xao động cả mặt sông, những cái chân vịt gác chổng lên loang loáng dưới mặt trời / Mỗi chiếc ghe là một ngôi nhà nhỏ, ngang hai mét, dài năm bảy mét. Nhỏ bé, chật hẹp. Nhưng có một cái gì đó thật khác thường, thế giới đó hẹp đến nỗi chỉ vừa để xoay lưng, để nằm co, để cúi người… mà cũng dài cũng rộng vô phương bởi cuộc sống rày đây mai đó, lênh đênh cuối bãi đầu ghềnh / Những chiều tà, chợ nổi đìu hiu bập bềnh đâu hết một vạt áo nắng vàng hoe hoe, đỏ hoe hoe. Những người đàn bà cúi đầu ngó chăm chăm xới nồi cơm dào dạt khói, những người đàn ông xếp bằng ngồi trên mui ghe vấn những điếu thuốc to đùng bằng đầu những ngón chân cái, phì phà nhả khói lên trời. Những đứa trẻ con ngồi tênh hênh trên mũi ghe câu cá chốt, cá mè. Những cô con gái sau một ngày bán hàng mệt mỏi soi mình xuống sông, chải tóc / Họ chắc cũng từng yêu từng vui từng đau, từng nghe phảng phất niềm thương nhớ đất” (tr.112). Có thể coi đây là một đoạn văn miêu tả đầy đủ nhất về sinh hoạt đời sống của người dân buôn bán trên chợ nổi ở Cà Mau. Duyên phận So Le viết về nhóm tiếp viên nhà hàng một khu du lịch ở đất Mũi, trong đó diễn ra mối tình giữa cô Xuyến và những người đàn ông chợt đến, chợt đi, tác giả đã có dòng tự sự bổ sung: “Tôi mới gặp lại thằng bạn cũ, cái thằng mỗi khi cười làm tim tôi thút thít thòm thèm. Tốn tới bốn năm, ủa, vậy thì bốn năm đó, chúng tôi chẳng rời xa cái thành phố chật chội này, cớ sao không gặp nhau? / Tôi ngồi ngẫm nghĩ mấy giả thuyết (tất nhiên là trong lúc rảnh), có thể, khi tôi tất tả trên con đường này thì thằng bạn lại đi trên con đường khác; tôi đi chợ mua cá nấu cơm, bạn đang nhậu; tôi thức gần trắng đêm để viết lách kiếm cơm, bạn phải ngủ; khi tôi ngược về vùng sâu vùng xa công tác, bạn được sếp cử đi Sài Gòn… Kẻ xuôi người ngược. Nhưng tôi nghĩ, cũng không loại trừ chúng tôi từng bị mắc trong một vụ kẹt xe, có cách nhau chừng năm ba thước cũng vô phương đối mặt. Hay chúng tôi cùng học, ở, thí dụ như học nghị quyết, chắc là tôi ngồi đằng cuối còn thằng bạn ngồi dãy đầu, tôi lên cầu thang bên này bạn xuống cầu thang bên kia…/ Về cái sự chúng tôi không gặp (dù thi thoảng cũng nhớ nhau), có quá nhiều giả thuyết. Nhưng, nếu quyết lòng, thì có khó khăn gì để gặp nhau, hở trời?!” (tr.134). Hiu hiu gió bấc tả mối tình của anh Hết và chị Hoài yêu nhau dữ dội mà không lấy được nhau, do mẹ chị Hoài chê anh Hết nghèo. Anh thầm lặng chôn chặt tình yêu trong lòng. Anh có biết đâu bên cạnh anh còn có chị Hảo, thương anh, chờ đợi anh đến thành gái lỡ thì, tác giả đã có lời đề từ: “Tôi thường đón gió chướng về với một tâm trạng lộn xộn, ngổn ngang. Mừng đó rồi bực đó. Sao tôi lại chờ đợi nó, chẳng phải năm nào cũng vậy, lúc cầm cây chổi ra quét sân, đứng trong gió đầm đìa tôi cũng buồn. Trời ơi, gió này là hết năm đây, già thêm một tuổi đây, mình đã kịp sống gì đâu, tay mình vẫn trắng như vầy… Mỗi lần gió về lại cảm giác mình mất một cái gì đó không rõ ràng, không giải thích được, như ai đó đuổi theo đằng sau, tôi gấp rãi nói, gấp rãi cười, gấp rãi khi ngày bắt đầu rụng xuống… / Cuối mùa gió chướng, trời bỗng lạnh hơn, thêm vào một chút buồn, nó kia, gió bấc! Những đám cưới được tôi cho xuất hiện trên cái nền gió nầy, nhưng chỉ là cái cớ cho buồn thấm hơn, sắc lại trên những mối tình dang dở. Chắc tại gió quá dịu dàng, nên có cảm giác gờn gợn buồn, có cảm giác như gió mồ côi, cúi đầu hiu hắt đi giữa đời. Hay tại tôi đã già, đã nhận ra không mùa vui nào là vui trọn. Đến đám cưới vốn là hỷ sự, tôi cũng “gây sự” để nó phải buồn chút chút. Chỉ có đám trẻ con là không biết, nên mới sướng rơn vỗ tay cười hát “Cô dâu chú rể. Làm bể bình bông. Đổ thừa con nít…” Hà hà, thấy vậy mà không phải vậy đâu, mấy cưng…” (tr.26).
3. Những lời đề từ mà tôi đã dẫn trên, tuy có nhiều cái dài cả gần trang sách, nhưng tôi vẫn phải dẫn nguyên văn, không lược bỏ một câu chữ nào. Bởi vì mỗi cái có một chỉnh thể riêng không thể chia cắt. Nếu tách mỗi cái riêng ra, có cái hoàn toàn có giá trị như một đoản văn, một tác phẩm nghệ thuật độc lập, hoàn chỉnh. Nó có tính tự đầy đủ để tạo thành một chỉnh thể toàn vẹn, thống nhất. Trong lời đề từ Nhà cổ, có câu mở đầu đáng chú ý: “Tôi thích những mối tình câm, tình thầm” (tr.62). Đó chính là cảm hứng chủ đạo chi phối toàn bộ cốt truyện, tình huống, xây dựng đời sống nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Tình yêu thầm lặng là tình yêu giữa Phương và Thể, Út Nhỏ và Phương (Nhà cổ), giữa ông Hai và cô Út (Cái nhìn khắc khoải), giữa Huệ và Thi (Huệ lấy chồng), giữa Hảo và Hết (Hiu hiu gió bấc), giữa Nga và Văn (Thương quá rau răm), giữa ông Chín Vũ và đào Hồng (Cuối mùa nhan sắc), giữa Năm Già và Xuyến (Duyên phận So Le) và có ít nhiều bản năng theo kiểu hiện sinh như giữa Điền và chị Sương (Cánh đồng bất tận)… Yêu lặng lẽ. Không cần thổ lộ. Những mối tình âm thầm đơn phương, không cần đáp lại, không cần đi đến kết quả cuối cùng. Yêu để mà yêu. Đó mới thật sự là tình yêu đích thực, bền vững ở cõi nhân gian tạm bợ, lắm đổi thay này.
Phương thức biểu hiện sinh động các yếu tố thi pháp hình thức của Nguyễn Ngọc Tư còn thể hiện ở việc miêu tả thiên nhiên, thời tiết như nắng, mưa, bụi, khói… mà nhất là gió, ở ngay chính các lời đề từ. Trong Cánh đồng bất tận không dưới hai mươi lần chị miêu tả các loại gió: gió bấc, gió chướng, gió thốc, gió lùa, gió cười, gió hiu hiu, gió dịu dàng, gió mồ côi, gió đầm đìa,… Thật ít có tác giả nào phổ vào gió nhiều cung bậc đến như vậy. Ngay trong lời đề từ của truyện mở đầu Cải ơi!, chị cũng mở đầu bằng câu hát cửa miệng của người dân Nam Bộ: “Gió đưa cây cải về trời”…(tr.6); mở đầu cho lời đề từ Hiu hiu gió bấc, chị thổ lộ: “Tôi thường đón gió chướng về với một tâm trạng lộn xộn, ngổn ngang”… Gió thổi xuyên suốt tập sách dày mấy trăm trang của chị (ở các trang 6, 26, 36, 61, 71, 120, 136, 158, 191, 198, 202, 208…). Cái không gian đủ các kiểu gió trên vùng sông nước kênh rạch, đồng ruộng ấy, đậm đặc chất liệu của đời sống đồng bằng Nam Bộ, nó thổi vào tâm trạng, vào đời sống nội tâm của những con người có tâm hồn trong như ngọc, chất phác, thánh thiện nhưng cũng hết sức bản năng. Những gì hiện ra trên văn bản, trên ngôn từ mà ta thường gọi là hiển ngôn hữu hạn hơn rất nhiều so với sự hàm ngôn, ở tầng sâu hơn, chị có khả năng mở ra những ngóc ngách tận đáy tâm hồn của con người, trong sự đồng hiện, đồng cảm giữa người đọc và thế giới nhân vật. Một trong những thủ pháp nghệ thuật tạo cho chị thành công, đó chính là việc sử dụng nhuần nhuyễn các lời đề từ. Có lẽ nhờ vậy, mà gần đây Cánh đồng bất tận của chị vừa được dịch giả Ha Jae Hong dịch ra tiếng Hàn, được Nhà xuất bản Châu Á (Asia Publishers) cho ra mắt độc giả Hàn Quốc. Đánh giá về sự kiện này, Thời báo Hàn Quốc (Korea Times) đã có bài viết trang trọng giới thiệu về tác giả và tác phẩm, trong đó có đoạn: “Trở thành một nhà văn có sách bán chạy ở tuổi 31 là một kỳ công để nhiều tác giả khác phải thèm muốn. Nhà văn Việt Nam Nguyễn Ngọc Tư - người đã “độc chiếm” độc giả ở tuổi 31 - không chỉ bán được khoảng tám mươi ngàn bản cho cuốn sách mới nhất, chị còn được giới thiệu như một giọng văn riêng ăn khách ở đất nước mình…” (10).
Ở nơi nào chị chưa thấu đáo, chưa thật sự chín hay như có người nói còn ít nhiều bị ảnh hưởng trào lưu này trào lưu khác cũng là điều tất yếu. Nhưng với tôi, sau những bậc trưởng bối đã thành danh không thể thay thế ở Nam Bộ trước đây như Lý Văn Sâm, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức… nay tôi mới gặp được một tâm thức, một giọng điệu Nam Bộ trong thế hệ trẻ là Nguyễn Ngọc Tư. Ở chị có sự đậm đặc của một giọng điệu văn chương Nam Bộ, trong đó có những kế thừa thế hệ trước, nhưng lại là giọng điệu của đời sống hiện đại, không trộn lẫn với bất kỳ ai. Đó là điều đáng quý, cần được khẳng định ở Nguyễn Ngọc Tư.

PHẠM PHÚ PHONG
(nguồn: TCSH số 232 - 06 - 2008)


---------------
([1]) http://vnexpress.vn.net/vietnam/vanhoa
(2) Vưu Nghị Lực, Có một vũng lầy bất tận, báo Tuổi trẻ, 9.04.2000
(3) Báo Tuổi trẻ, 8.04.2006
(4) Trần Hữu Dũng, Nguyễn Ngọc Tư – “đặc sản” miền Nam, http://www.thuvien.net
(5) Lê Phú Khải, Văn học không phải là thuốc bắc, báo Tuổi trẻ, 8.04.2000
(6) Hữu Thỉnh, Người đọc “bắt được sóng” của trái tim và tài năng báo Tuổi trẻ, 8.04.2006 (trả lời phỏng vấn của Thu Hà)
(7) Lê Bá Hán (chủ biên), Tự điển thuật ngữ văn học, Nxb Văn học, H.2004, tr.112
(8)  Trần Thị Ái Nhi, Những yếu tố ngoài cốt truyện trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư, KLTN, Khoa Ngữ văn, ĐHKH Huế, 2007, tr.47
(9) Nguyễn Ngọc Tư, Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ - báo Tuổi trẻ 2005, tr.6 (những chú thích chỉ ghi số trang, đều trích từ tác phẩm trên).
([1]0)  Dẫn theo báo Tuổi trẻ, 8.10.2007, tr.13

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…