Linh sơn mây trắng

09:56 20/11/2008
NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.

Tương truyền ngày nọ trên đỉnh Linh Thứu, đức Phật lên toà giảng Pháp - Không luận giải dài dòng như mọi ngày, Ngài chỉ im lặng cầm một cành hoa đưa lên trước hội chúng. Hội chúng ngơ ngác không ai hiểu gì, chỉ tôn giả Ca Diếp lặng lẽ mỉm cười như ngầm thâm ngộ ý nghĩa lời dạy của Thầy. Thế là, bằng lối “Niêm hoa vi tiếu”, đức Thế Tôn đã khai sinh ra dòng Thiền tông, một tông phái lấy tâm truyền tâm, coi trọng tự chứng, không qua ngôn ngữ văn tự mà chỉ dùng tuệ giác vốn có nơi tâm. Từ Ca Diếp, tâm ấn được truyền sang A Nan Đà, rồi tiếp tục truyền thừa cho đến tổ thứ 28 của Thiền tông Ấn Độ là Bồ Đề Đạt Ma.

Trước khi đến Linh Thứu, xe chúng tôi ngang qua kinh thành Vương Xá cổ xưa của nước Ma Kiệt Đà. Ngày ấy Vương Xá phồn vinh, tươi đẹp là thế mà nay hoang phế, tịnh không bóng người. Dưới chân núi, đám hàng rong bu quanh du khách. Quán xá nhếch nhác, hôi hám và ruồi. Đoạn đường từ chân núi đến đỉnh khoảng 2 km dốc thoai thoải, người ta vừa chỉnh trang bằng các bậc cấp tráng xi măng - không sao tìm lại dấu chân đức Phật từng đi qua. Thuở xưa hẳn Linh Thứu cây cao bóng cả, uy linh diệu vợi, nay chỉ như một ngọn đồi xơ xác cỏ cây. Dọc bên đường vẫn còn vài dấu tích lịch sử: Tảng đá Đề Bà Đạt Đa quyết lăn hảm hại đức Phật, nơi nhà vua Tần Bà Xa La xuống xe đi bộ, nơi nhà vua cho đoàn tuỳ tùng lui, chỉ một mình lên thăm đức Phật.


Qua khỏi “Linh Sơn kiều” - chiếc cầu bắc qua con suối nhỏ, là địa phận đỉnh Linh Thứu; nhiều những đống đá chất chồng lên nhau, một cách cầu nguyện của các tín đồ Tây Tạng. Đỉnh Linh Thứu là một khuôn viên hình chữ nhật khoảng 10 x 20 m, bên ngoài là vòng thành ba mặt cao không quá 0,80 m, bên trong thêm một vòng thành vuông, ở giữa có tượng Phật nhỏ tí và đủ thứ cờ hoa trông màu mè đồng bóng, một bát hương to và thô như cái xô của mấy ông thợ hồ. Quanh tượng Phật người ta dàn dựng một số tiền cò mồi đủ loại. Không màu xanh. Không cây cối. Trên đầu, trời sâu thăm thẳm, vài đám mây trắng vẩn vơ bay. Cũng như ở Bồ đề Đạo tràng, tôi thả lỏng mình và mở rộng cái tâm văn hoá sẵn sàng đón nhận và cảm nhận. Nhưng chẳng có gì cả ngoài cảm giác trần trụi và khó chịu. Vậy mà 2.500 năm trước, đây từng là nơi đức Phật an trú, là nơi diễn ra Hội Linh Sơn còn ghi trong kinh sách, nơi nguồn sáng minh triết chiếu rọi bốn phương cứu rỗi nhân loại mê lầm; nơi Pháp Hiển, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh và bao thánh tăng từng chiêm bái, suy nghiệm và thổn thức...

Khi thấy chỉ còn tôi và hai du khách nữa nấn ná chưa muốn rời, ông bảo vệ người Ấn dở dói đòi tiền bồi dưỡng. Cái trò nầy rất thường gặp ở các thánh địa, nó làm nhàu nát cảm xúc cao quí của khách hành hương. Hôm đến thăm Khổ Hạnh Lâm, đó là một động đá sâu khoảng 5 m, rộng 3 m. Ngay chính giữa là bức tượng đức Phật thời tu khổ hạnh. Bên phải ngay cửa động là một bàn thờ Ấn giáo và một ông tu sĩ người Ấn ngồi chờ sẵn. Sau khi tôi đảnh lễ đức Phật, ông ra hiệu bắt phải quay sang bái lạy bàn thờ của ông và phải cúng tiền. Tôi tán thành quan điểm bất tranh của Phật giáo, nhưng trong vài trường hợp tôi không đồng ý lắm với cách vận dụng vào thực tiễn.

Thời gian du khách ngẩn ngơ trên đỉnh Linh Thứu đủ để cánh cái bang triển khai đội quân hùng hậu dọc đoạn đường từ “Linh Sơn kiều” xuống chân núi. Cứ khoảng 40 mét có một hoặc hai vị cái bang ngồi chìa cái đầu trần giữa nắng cháy, mặt mày đen điu hốc hác, phần lớn chột hoặc mù, bàn tay lở lói chìa ra khỏi lớp khăn chùm kín cổ. Ảo não thế chắc không ai nỡ đành lòng. Phật giáo phát sinh từ Ấn Độ, truyền sang Nam Á, Việt Nam, Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản. Thiền tông Nhật Bản cùng với Thần đạo Shinto đã kiến tạo nên nền tảng văn hoá đặc thù trên đó người Nhật sống, chiến đấu, dựng xây, yêu thương, quan hệ, ứng xử... Hôm sang Nhật, lang thang với các ngôi chùa cổ ở NaraKyoto , tôi không hề thấy bóng dáng mấy vị cái bang - tuyệt đối không. Qua 2.500 năm hoằng pháp, không biết điều gì đã tạo ra khoảng cách xa đến thế giữa gốc và ngọn?
Rời Linh Thứu mà lòng tôi cứ nặng trĩu bao mối cảm hoài.

Theo tâm nguyện của Thầy mình, năm 520, Bồ Đề Đạt Ma sang Đông độ mang theo thông điệp: “Bất lập văn tự. Giáo ngoại biệt truyền. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tánh thành Phật”. Vua Lương Võ Đế hay tin vội chiếu thỉnh về kinh. Bài giảng Pháp đầu tiên của Đạt Ma đột phá, lạ lùng đến cả triều thần Lương Võ Đế ngơ ngác. Thấy Lương Võ Đế tuy mộ đạo và thông thái nhưng tâm cơ chưa đạt, không thể hoá độ được, Ngài bèn cáo biệt, lên chùa Thiếu Lâm ẩn cư, “cửu niên diện bích” - 9 năm quay mặt vào vách đá hành trì Thiền định. Cho đến một ngày, Thần Quang xin bái kiến, kiên trì nhẫn nại, quyết chặt đứt cánh tay tỏ bày chí nguyện cầu đạo. Ngài hỏi:
- Chư Phật phát tâm cầu Đạo, vì Pháp bỏ thân, nay ông chặt cánh tay là để làm gì?
- Con có thể nghe được Pháp Ấn của chư Phật chăng?
- Pháp Ấn của chư Phật không thể nhờ vào người khác.
- Nhưng tâm con không an, xin thầy an tâm cho con.
- Hãy đưa tâm của ngươi ra đây ta an cho.
- Bạch, con kiếm mãi mà chẳng thấy tâm ở đâu.
- Thế là ta đã an cái tâm cho ngươi rồi đó.
Nghe xong, Thần Quang đại ngộ, được Bồ Đề Đạt Ma nhận làm đệ tử, được đổi tên thành Huệ Khả. Và thế là Thiền tông Trung Hoa ra đời.

Từ sơ Tổ Đạt Ma đến nhị Tổ Huệ Khả, tam Tổ Tăng Xán, tứ Tổ Đạo Tín, ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, Thiền tông Trung Hoa như dòng suối mát lành nơi rừng sâu núi thẳm, phải đến lục Tổ Huệ Năng, Thiền mới trở thành con sông lớn chảy qua làng mạc, ruộng đồng, mang lại nguồn sống cho con người, vạn vật, cỏ cây hoa lá. Thiếu Lâm Tự trở thành cội nguồn của Thiền tông Trung Hoa và nhiều quốc gia khác ở châu Á, là “cái nôi” của Võ thuật thế giới, là “Quốc tự” của người Tàu.

Tôi đến thăm Thiếu Lâm Tự một ngày đầu thu năm 2004. Ngày nay đã có xa lộ hiện đại nối liền thủ phủ Trịnh Châu với huyện Đăng Phong, du khách chỉ cần mất 1g30 ngồi xe là đã có thể từ trần gian bước vào cõi mộng. Xem ra người Trung Quốc có năng khiếu đánh hơi rất nhanh mùi tiền. Trong xu thế nhân loại muốn tìm về những giá trị Đông phương, Thiếu Lâm Tự trở thành “thương hiệu” hấp dẫn. Huyện lỵ Đăng Phong được nâng lên hàng Thành phố. Các học viện “Thiếu Lâm công phu” mọc lên như nấm, thu hút hàng chục vạn thanh thiếu niên trong nước và khắp nơi trên thế giới về ăn ở tập luyện. Nhiều vị cao tăng suốt ngày bận rộn khách khứa trong những căn phòng điều hoà với đầy đủ tiện nghi thế tục. Rồi đường sá, cầu cống, khách sạn, nhà hàng, văn phòng giao dịch... Rõ ràng Thiếu Lâm Tự đang được hiện đại hoá từng ngày. Quãng sân trước chùa lát đá hoa sang trọng cùng với dãy kiốt lúc nào cũng nhộn nhịp du khách khiến Sơn môn với hàng chữ “Thiếu Lâm Tự” - thủ bút của nhà thư pháp Hoàng đế Khang Hy, như vừa hiện ra từ một thiên tiểu thuyết võ hiệp. Kiểm soát vé vào cửa là một đồng chí công an và một nhà sư trẻ. Chùa Thiếu Lâm thiết kế theo đường thẳng trục Bắc - . Từ Sơn môn đến Thiên Vương Điện là hai dãy rừng thư pháp hàng ngàn năm tuổi. Không biết cơn lốc “Cách mạng Văn hoá” có tàn phá Thiếu Lâm Tự như nhiều ngôi chùa khác trên đất Trung Hoa? Rõ ràng nhà nước đang có nỗ lực trùng tu nhiều điện, tháp ở đây. Sau Thiên Vương Điện là Chính Sảnh - vừa được trùng tu. Tiếp theo là Tàng Kinh Các, nơi lưu giữ kinh sách, bí kíp võ công và những tài liệu vô giá - nay không biết chúng lưu lạc nơi nào. Trước phòng Phương trượng, cô Hướng dẫn viên nói người ta vừa tìm ra bức tượng Phật bằng vàng vốn là một kiệt tác của chùa lưu lạc tận bên Thái Lan. Gần đây nhà chùa mượn về triển lãm và đã nhân ra hàng ngàn phiên bản, du khách ai cũng có thể thỉnh về, nhưng phải trả tiền. Lập Tuyết Đình, nơi Huệ Khả chặt cánh tay cầu đạo và được Đạt Ma truyền tâm ấn. Sau cùng là La Hán Điện, trên nền vẫn còn nguyên dấu chân luyện công hàng ngàn năm trước. Dọc hai bên trục chính còn nhiều những công trình khác như Tháp chuông, Tháp trống, Thiền phòng, Đền Jinnaluo, Điện Diêm La Bồ Tát, Điện Quan Âm Bồ Tát... Tôi thật sự xúc động trước tảng đá có in hằn khuôn mặt Bồ Đề Đạt Ma “cửu niên diện bích” được đem về thờ trong Điện này.


Thiếu Lâm Tự ngày trước có đến hàng ngàn tăng sĩ, nay sao không thấy bóng dáng họ đâu. Rồi Phương trượng, liệu Ngài có còn ở trong chùa? Năm ngoái tôi đến thăm Tu viện Tashilhunpo ở Shigatse, trú xứ của đức Ban Thiền Lạt Ma Tây Tạng, chú tiểu thật thà trả lời: “Ngài không có nhà. Ngài đi Bắc Kinh học tập chính trị”... Thế còn Phương trượng chùa Thiếu Lâm! Chắc nếu có đi đâu đó thì rồi ra Phương trượng cũng về với chùa thôi.
Là thế đó. Ngày nay Thiếu Lâm Tự, chùa không thấy sư, Tàng Kinh Các không có sách, Điện Tháp không có hồn, cảnh chùa không thiền vị. Ngày nay Thiếu Lâm Tự như là một Trung tâm du lịch lúc nào cũng tấp nập du khách hơn là cảnh giới tu tập thiền định của các tăng sĩ. Ngày nay, còn chăng chỉ là mấy cây bách ngàn năm tuổi cành lá sum suê giữa lồng lộng trời xanh mây trắng.

Phật giáo truyền vào Việt Nam rất sớm, nhưng phải đợi đến khi hợp duyên với ba dòng Thiền từ phương Bắc xuống mới tựu thành; rực rỡ nhất là dưới hai triều đại Lý-Trần, mà đỉnh cao là vị Vua-Phật Trần Nhân Tông. Ngài vừa là đấng minh quân vừa là bậc thiền sư đạt đạo. Sau khi hoàn thành sứ mạng an dân và lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, Ngài từ bỏ ngai vàng, truyền ngôi cho con là Trần Anh Tông, rồi lên núi Yên Tử tu tập Thiền định, lập nên dòng Thiền tông Việt Nam - Thiền phái Trúc Lâm, mà Ngài là vị Tổ thứ nhất. Yên Tử trở thành Trung tâm của Phật giáo Đại Việt. Và vua Trần Nhân Tông trở thành vị Phật Tổ của Việt . Chùa Hoa Yên là nơi Ngài thường giảng Pháp cho các đại đệ tử cùng tăng chúng khắp nơi. Dân gian có câu: “Trăm năm tích đức tu hành. Chưa về Yên Tử chưa thành quả tu”.

Thuở xưa, Yên Tử ẩn khuất giữa đại ngàn tùng trúc là hệ thống chùa, tháp từ chân núi đến đỉnh, quả xứng là xứ Phật cõi thiêng. Ngày nay, hầu hết công trình bị đổ nát qua thời gian và qua sự ngu ngốc của con người nhân danh này nọ. Chỉ một số được trùng tu để phục vụ nhu cầu du lịch và Lễ Hội, trong đó có chùa Hoa Yên vừa được hạ giải tháng 7 năm 2002. Công trình đáng kể nhất biểu hiện nỗ lực hiện đại hoá Yên Tử là hệ thống cáp treo, cùng với các nhà nghỉ, nhà hàng, kiốt quanh chùa Hoa Yên và dài theo các điểm di tích.

Tôi về thăm Yên Tử sau mùa lễ hội năm 2004, du khách chỉ thưa thớt. Tôi gặp ở chùa Hoa Yên đôi vợ chồng trẻ 10 năm không có con, họ lên Yên Tử cúng lễ cầu tự. Trên chùa Đồng, một bà cốt tận Daklak đại diện cho hai thân chủ mắc bệnh bại liệt và ung thư, mang theo lễ vật cúng Phật cầu lành tật bệnh - Chùa Đồng bốn bề hương khói trông chẳng khác chi cái am nhỏ ở làng quê. Sử chép rằng, không chịu nổi sự áp bức vô lý của Trần Thủ Độ, đêm mồng 3 tháng 4 năm 1236, Trần Thái Tông trốn triều đình, lên Yên Tử mong cầu giải thoát. Khi hiểu rõ ngọn nguồn, sư Trụ trì nói: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong tâm ta. Nếu tâm thanh tịnh, trí tuệ xuất hiện, thì đó chính là Phật, khỏi phải cực khổ tìm kiếm ở bên ngoài”. Ngày ấy, Yên Tử là cảnh giới u tịch, thanh thoát, chứa chan thiền vị, giúp con người tìm lại “bản lai diện mục” của mình, giúp trở về với suối nguồn an lạc có tự nơi mỗi chúng sinh. Ngày nay, Yên Tử thành nơi con người sì sụp khấn lạy Phật Thánh cầu xin phước, lộc, thọ, may mắn, hanh thông, cả được hạ cánh an toàn.

Đêm ấy tôi ngủ lại trong cái lán nhỏ dưới chân chùa Đồng. Suốt đêm cứ thao thức hoài về vị Vua-Phật Trần Nhân Tông. Ông là nhân vật lạ lùng: Là đấng minh quân, là nhà quân sự lỗi lạc, vị anh hùng dân tộc, một nhân cách cao vời, bậc thiền sư đạt đạo. Cái gì đã dung hợp từng ấy con người trong một con người? Sức mạnh nào giúp ông tổng hoà Thiền tông Trung Hoa, Nho, Lão, và đạo lý Nhân Nghĩa của dân tộc để hợp thành Thiền Tông Việt Nam mang bản sắc văn hoá Việt Nam; dòng Thiền đã chiếu rọi thứ ánh sáng thông tuệ suốt chiều dài lịch sử dân tộc, góp phần làm nên bản lĩnh dân tộc, tồn tại vững vàng qua bao lần nghiêng ngả trước âm mưu đồng hoá của ngoại bang?
Đêm trên đỉnh Yên Tử bao la, sâu thẳm và chi chít những vì sao. Đó là khoảng trời đêm tôi từng gặp trên nóc nhà thế giới, trên đỉnh Phú Sĩ, trên sa mạc châu Phi, dưới chân Kim Tự Tháp, nơi cổ thành hoang phế một thời lừng lẫy Memphis, Thebes... Là khoảng trời đêm 700 năm trước Vua-Phật Trần Nhân Tông ngắm nhìn và mỉm cười trước khi viên tịch.

Không biết cơ duyên nào mà tôi, không phải Phật tử, không thuộc một câu kinh bài kệ nào, lại được chiêm bái ba ngọn núi thiêng mà chắc nhiều vị Phật tử thuần thành một đời mơ ước. Và đây là điều tôi đã thực chứng, rằng ngày nay, trên ba ngọn linh sơn ấy không còn chi hình tướng cũ. Ngày nay, trên ba ngọn linh sơn ấy chỉ còn là trời xanh mây trắng bay.
Vạn pháp vốn vô thường, có sinh tất có diệt. Thì ba đỉnh cao vòi vọi một thời kia cũng thế thôi, cứ thị hiện rồi lụi tàn. Có điều nhân sinh không phải ai cũng bình tâm trước cái lý thường hằng ấy. Vậy nên trong lúc Trần Tử Ngang rơi lệ thì bậc Thiền sư mỉm cười.
 N. V. D

(nguồn: TCSH số 203-204 – 01&02 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNG              Tản mạn từ Bruxelles Dưới mái hiên trạm gác cũ Porte de Ninove gần chỗ tôi ở có sống một cư dân đơn độc và lưu niên. Gã bù xù, tôi chỉ biết gọi gã như thế, nom chỉ trạc ngoài ba mươi nhưng có vẻ như đã cũ nát lắm rồi. Không ai biết gã từ đâu dạt vào, ở đó từ bao giờ.

  • TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...

  • ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.

  • PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.

  • BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...

  • NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.

  • PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG    Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.

  • PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...

  • Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.

  • TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.

  • KEVIN BOWEN
    (Giám đốc WJC)

    LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.

  • NGUYỄN BÁ CHUNG

    Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.

  • VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.

  • NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).

  • PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.