Tranh làng Sình (xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế) vốn là dòng tranh dân gian nức tiếng hàng trăm năm qua. Những ngày Xuân về, làng tranh này lại rộn ràng khoe màu như chưa từng có sự đứt gãy của thời gian.
Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước với nghệ thuật chế tác tranh làng Sình
Màu xưa, giấy cũ
Làng Sình còn có tên gọi khác là làng Lại Ân, nằm ở hạ nguồn sông Hương, phía bên kia là bến Thanh Hà. Đây là một cảng sông nổi tiếng thời các Chúa Nguyễn xây dựng Đàng Trong. Làng Sình không chỉ nổi tiếng với các món võ vật, mà dòng tranh nơi đây từng nức tiếng có thể sánh cùng các dòng tranh dân gian ở phía Bắc.
Bên ấm nước chè xanh, nghệ nhân Kỳ Hữu Phước (65 tuổi), người duy nhất giữ được những mộc bản in tranh được truyền từ hàng trăm năm trước, tâm sự: "Nghề làm tranh thờ cúng vốn đã có từ xưa, đến tôi là đời thứ chín. Không hiểu răng, hễ đến những ngày gần giáp Tết là bà con khắp trong Nam ngoài Bắc tấp nập tìm về làng Sình mua tranh dân gian để thờ cúng ông bà”.
Ngồi trò chuyện cùng ông, hỏi hết những "bí truyền" để chế tác tranh làng Sình, ông say sưa kể như nhà nghiên cứu tranh dân gian thực thụ. Theo ông Phước, nguyên liệu quan trọng làm nên tranh làng Sình là giấy dó cùng những chất liệu màu tự nhiên của cây cỏ, không lẫn bất kỳ hóa chất nào.
Bởi thế nên tranh làng Sình rất "sạch", xưa người dân dùng để thờ cúng rồi đốt đi. Xưa, trước nhà cư dân làng Sình thường có những tấm lưới vuông với nhiều kích cỡ khác nhau. Những người thợ lấy vỏ cây bìa lời bỏ vào cối giã, chắt lấy nước rồi trộn với bột giấy (chất liệu được làm từ cây dó), sau đó quét đều, tráng bằng lên từng vuông lưới.
Hợp chất trên sẽ tạo ra giấy dó. Giấy dó được dùng sò điệp quét lên trên làm cho giấy vừa cứng, không bị thấm ở mặt sau khi tô màu và tạo ra sắc màu óng ánh cũng là nét đặc trưng của tranh dân gian làng Sình.
Cứ tầm tháng 6, 7 Âm lịch, những thanh niên trai tráng trong làng men theo con nước về các vùng Tam Giang, Cầu Hai cào điệp (một loại thuộc họ sò, vỏ phẳng, có màu trắng) mang về bỏ vào tro nung ở nhiệt độ cao rồi bỏ vào cối giã nhuyễn, trộn với bột hồ (bột gạo).
Sau đó, họ dùng chổi kết bằng lá thông quét hợp chất đó lên giấy dó. Bột điệp lấp lánh kết hợp với hồ quết lên giấy dó sẽ cho ra một thứ giấy trắng lấp lánh ánh bạc. Ông Phước cho biết thêm: "Công đoạn tạo màu tự nhiên cho tranh cũng không kém phần gian nan.
Ngày xưa, chưa có màu công nghiệp như bây giờ, để làm ra vài bộ tranh, có khi mất cả tháng trời, nhưng người trong nghề xem đó là niềm đam mê, niềm vui công việc mình phải theo đuổi".
Các loại màu như: màu đỏ (lấy từ rễ cây vang), màu vàng (lá và hoa cây dành dành), màu cam (gạch mài nhuyễn trộn với da trâu tươi nấu thành keo)..., tất cả các loại cây trên đều được lấy từ vùng rừng núi phía Tây Thừa Thiên - Huế.
Thường mỗi nồi thuốc màu phải nấu đúng 4 ngày 3 đêm mới ra màu đạt chất lượng. Vì thế, đến nay, những bức tranh làm từ giấy, màu tự nhiên ông Phước chỉ làm theo đơn đặt hàng, chứ bán như tranh thị trường không được vì giá thành cao.
Vẽ tranh dưới hầm
Trước đây, làng Sình có hàng chục hộ làm tranh, chủ yếu phục vụ việc thờ cúng của dân làng và dâng lên triều đình phong kiến trong các dịp Quốc lễ. Đến những năm 75 - 80 của thế kỷ trước, nghề làm tranh bước vào "ngõ cụt" khi tranh làng Sình bị quy là một sản phẩm tuyên truyền cho mê tín dị đoan, gây lãng phí.
Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước nhớ lại là cả mấy chục hộ trong làng đều bỏ nghề vì bị cấm làm, không có thu nhập. Ông Phước với tâm nguyện muốn giữ lại nghề truyền thống của cha ông, cũng vì kế mưu sinh mà đã tìm mọi cách vượt qua khó khăn giai đoạn này.
Ông tâm sự: "Hồi đó khổ lắm, chỉ làm trong nhà dùng khi có việc thôi, vì đa phần mộc bản đem lên đều mục ruỗng, hư hỏng cả. Tui bàn với vợ con, muốn giữ được nghề, có thu nhập thì phải vẽ tranh dưới... hầm".
Nói là làm, ban ngày ông đào cái hố trước sân nhà, cứ mỗi ngày vài thúng đất, "tích tiểu thành đại", đến khi đường hầm thông ra bên ngoài đã xong, đêm đến, ông cho bắc ván lên trên rồi phủ đất, cán bộ đi kiểm tra không hề hay biết.
Ông Phước cùng vợ và 5 người con "trú” dưới hầm để tiếp tục vẽ tranh, sáng ra, quấn tranh trong người mang đi đến từng nhà bán. Từ dưới lòng đất, với đôi bàn tay tài hoa của nghệ nhân Phước, dòng tranh dân gian làng Sình đã được giữ lại trước sự quên lãng của thời gian.
Không dừng lại ở việc giữ nghề, ông Phước còn cố gắng mở rộng, phát triển, làm cho nghề vẽ tranh làng Sình hồi sinh. Đặc biệt, 5 đứa con của ông đều theo nghề chế tác tranh của cha ông. Nhờ sự cố gắng của ông, từ một vài hộ lẻ tẻ, đến nay đã có 40 hộ trở lại làm tranh.
Kết hợp du lịch
Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước cho biết: "Đến nay, đã có 8 công ty mở các tour du lịch cho khách nước ngoài về với làng Sình để thưởng lãm, mua tranh. Bên cạnh dòng tranh thờ cúng mình vẫn duy trì, chúng tôi còn kết hợp làm thêm tranh trang trí, các bộ lịch bán cho khách phương Tây.
Đây là mặt hàng du khách rất ưa chuộng bởi tính dân dã, mộc mạc". Phương án kết hợp với các tour du lịch tại địa phương đã mang lại hiệu quả cao. Lúc cao điểm như hiện nay, ngoài lao động trong nhà, ông Phước còn phải thuê thêm 20 lao động là những người thợ trong thôn mới làm kịp việc.
Nghệ nhân Phước tâm sự: "Dù đến nay đa phần các tranh vẽ đều dùng màu công nghiệp nên làm nhanh hơn, nhưng điều đó không có nghĩa là người nghệ nhân đánh mất nét truyền thống của tranh làng Sình. Các bộ tranh Bài chòi, Kéo co nam nữ, Bịt mắt nam nữ, Bốn thế vật... vẫn tuân thủ các kỹ thuật vẽ truyền thống xưa nay của cha ông.
Ngoài ra, chúng tôi còn sáng tạo thêm những bức tranh phản ánh đời sống thường nhật như bộ Xuống vụ, Trò chơi, Bát âm...". Ông Trần Vãng, Phó chủ tịch UBND xã Phú Mậu, cho hay: "Để phục hồi tranh làng Sình, trong những năm qua, địa phương đã lập nhiều đề án giúp làng nghề mở rộng thị trường, thay đổi mẫu mã hướng đến du lịch.
Bên cạnh đó, địa phương cũng tranh thủ nguồn vốn khuyến công của huyện, tạo điều kiện cho bà con vay vốn ngân hàng với lãi suất ưu đãi. Bằng sự phát huy hiệu quả yếu tố văn hóa bản địa, tranh làng Sình đã thực sự hồi sinh".
Nguồn Doanh nhân Sài Gòn
HỒ NGỌC MINH
Trong chuỗi hoạt động của Tuần lễ Áo dài Cộng đồng Huế 2024, Sở Văn hóa và Thể thao đã phối hợp với Câu lạc bộ Đình làng Việt tổ chức Tọa đàm và Giới thiệu sách “Áo dài truyền thống – Hành trình trở lại” vào chiều ngày 25/06/2024.
Trong khuôn khổ Festival Huế 2024, Tuần lễ Áo dài cộng đồng sẽ là chuỗi hoạt động cuối cùng của Lễ hội mùa Hạ.
Nhân kỷ niệm 99 năm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, tại Tạp chí Sông Hương đã diễn ra những cuộc gặp gỡ thân mật của lãnh đạo ban ngành các cấp trong tỉnh.
Chiều 19/06, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức trao giải Báo chí Hải Triều năm 2024 và tặng kỷ niệm chương vì sự nghiệp báo chí cho các nhà báo lão thành, nhân kỷ niệm 99 năm ngày Báo chí cách mạng Việt Nam.
Nhân kỷ niệm 99 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6 (1925 – 2024), đồng chí Phan Ngọc Thọ - Phó Bí thư thường trực tỉnh ủy đã có buổi nói chuyện thân mật với đông đảo các văn nghệ sĩ của Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế.
Hội đồng nhân dân tỉnh đã khai mạc kỳ họp chuyên đề lần thứ 18, khóa VIII, nhiệm kỳ 2021 - 2026 vào sáng 17/06, thảo luận nhiều vấn đề về kinh tế xã hội, phát huy trí tuệ, dân chủ để xem xét thông qua các nghị quyết.
Đó là một trong số các các kết luận được ban tổ chức Tuần lễ Festival nghệ thuật Quốc tế Huế 2024 vui mừng chia sẻ, trong cuộc họp báo tổng kết chiều 13/06, do UBND tỉnh tổ chức. Ước tính, 6 ngày đêm lễ hội đã thu hút trên 100.000 lượt du khách trong nước và quốc tế.
Tối 12/06, chương trình nghệ thuật đặc sắc tại sân khấu điện Kiến Trung, Đại Nội đã khép lại Tuần lễ Festival Nghệ thuật quốc tế 2024. Đọng lại trong giây phút giã bạn là rất nhiều luyến lưu. Nỗ lực của lãnh đạo tỉnh, ban tổ chức và người dân Thừa Thiên Huế đã để lại rất nhiều ấn tượng với du khách bốn phương cùng một mùa Festival thành công.
Sáng ngày 10/6/2024, tại Tạp chí Sông Hương đã diễn ra buổi giới thiệu sách và trao tặng quà cho học sinh mồ côi của nhà thơ, chuyên gia ẩm thực Hồ Đắc Thiếu Anh – Phó giám đốc Trung tâm UNESCO văn hóa ẩm thực Việt Nam.
Trước khi sự kiện bắt đầu diễn ra, tại cổng Ngọ Môn, khán giả đã xếp hàng nối hàng khá dài ở cửa soát vé, cùng nhau tiến vào phía bên trong Đại Nội, đến gần điện Kiến Trung. Tâm trạng của hàng người ấy háo hức như đang hình dung sẽ được thưởng thức một bữa tiệc âm nhạc đặc sắc, thứ âm nhạc đã đi vào lòng người nhiều thế hệ của Trịnh Công Sơn.
Tối 9/6, 20 chiếc thuyền rồng thả hoa đăng trên sông Hương, như nối kết truyền thống và hiện đại trong niềm tin tâm linh. Lễ hội với ý nghĩa “Phật giáo đồng hành cùng dân tộc” và “hộ quốc an dân” thể hiện sự gắn kết sâu sắc giữa Phật giáo và đời sống con người.
Theo dòng sự kiện Tuần lễ Festival Nghệ thuật Quốc tể Huế 2024, lễ hội đường phố với chủ đề “Sắc màu văn hóa” đã khai mạc và bắt đầu quảng diễn vào chiều 08/6; từ 16h00 - 18h00 tại các trục đường chính của Thành phố Huế.
“Dạo chơi vườn Huế” là cuộc triển lãm mỹ thuật tiếp theo trong chuỗi sự kiện chào mừng Tuần lễ Festival Nghệ thuật Quốc tế Huế 2024, diễn ra trong một khu vườn - không gian xanh mát đầy sắc màu.
Trong đêm khai mạc tuần lễ Festival nghệ thuật Quốc tế Huế 2024 tối 7/6. Điện Kiến Trung, Đại Nội trở thành một không gian ánh sáng với rất nhiều tiết mục nghệ thuật đặc sắc, mãn nhãn, hòa trộn giữa truyền thống và hiện đại. Mùa lễ hội đã chính thức bắt đầu.
Trong chuỗi sự kiện chào mừng Tuần lễ Festival Nghệ thuật Quốc tế Huế 2024, Trung tâm văn hóa Phật giáo Liễu Quán cũng đã hoan hỉ khai mạc triển lãm Văn hóa Phật giáo vào sáng ngày 07/06/2024, tại 15A Lê Lợi, Huế.
Chiều ngày 06/06/2024 tại Trung tâm Nghệ thuật Điềm Phùng Thị - 17 Lê Lợi Huế đã diễn ra lễ khai mạc triển lãm mỹ thuật “Nét đẹp Phú Lộc qua nghệ thuật Ký họa”. Triển lãm hưởng ứng Tuần lễ Festival Nghệ thuật Quốc tế Huế 2024 với chủ đề “Di sản văn hóa với Hội nhập và Phát triển”.
Thừa Thiên Huế tiếp tục có những nỗ lực bền bỉ trong tiến trình xanh hóa đô thị, cải tạo cảnh quan môi trường, hướng tới mục tiêu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. Trong dịp này, nhiều hoạt động sôi nổi đã được tổ chức, nhân dịp hưởng ứng ngày Môi trường thế giới 5/6, Tháng hành động vì môi trường và đồng hành cùng Festival sắp khai mạc.
Di sản văn hóa cung đình được xem là hạt nhân, có ý nghĩa kết nối văn hóa Huế, trong một hệ thống đa dạng, đặc sắc, có giá trị quốc gia và mang tầm quốc tế. Mỗi dịp Festival, hệ thống di sản trở thành trung tâm trong nỗ lực bảo tồn, phát huy và sáng tạo.