Làng nghề đan lát Bao La

11:18 27/05/2008
Thúng mủng Bao La đem ra đựng bột. Chiếu Bình Định tốt lắm ai ơi. Tạm tiền mua lấy vài đôi. Dành khi hiếu sự trải côi giường Lào.

Tôi theo câu ca tìm đến làng nghề đan lát truyền thống mây tre thôn Bao La, xã Quảng Phú, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế.
Làng Bao La hướng ra biển đông, gồm xóm Chùa, Đình, Hóp, Đông, Cầu và xóm Chợ. Đầu làng xóm Chùa cuối làng xóm Chợ. Mặc dù người dân trong làng đều biết đan giần, sàng, mủng, nia, rổ, rá nhưng theo ý các cụ tổ tiên mỗi xóm vẫn giữ nghề gia truyền của xóm mình để tránh cạnh tranh với láng giềng sinh mất hoà khí. Nên xóm Chùa chuyên đan rá, xóm Đình chuyên đan mủng, trẹt, xóm Hóp rổ, xóm Đông và xóm Cầu nia và xóm chợ sàng, giần.
Tôi từ Huế, theo hướng Bắc, chạy xe ra cây số mười bảy, rẽ vào mấy nẻo đường quê và men theo dòng sông Bồ râm mát những lũy tre xanh, dắt xe qua đò ở bến đò Hạ Lan, chạy thêm một quãng qua cánh đồng bát ngát mới đến với làng nghề một thời nức tiếng gần xa, cho tới bây giờ còn bịn rịn câu ca. Nghe đâu vào thời phát đạt của thúng, mủng, những trai lực điền vâm váp muốn làm rể làng Bao La phải biết đan thúng, mủng, khi quăng mạnh thúng ra xa, thúng bung vành ra. Tôi thực sự ngạc nhiên cái tiêu chuẩn chọn rể ngược đời của người xưa có gì đó mâu thuẫn với câu ca. Thúng, mủng Bao La xưa nay nổi tiếng tốt, bền, mới làm nên câu ca chảy mải miết theo năm tháng, mới sánh với làng đan chiếu Bình Định và giường của người Lào đất nước triệu voi nhiều gỗ quý. Suốt dải đất miền Trung hầu như ai cũng biết thúng, mủng làng Bao La đựng được bột mịn không chảy.
Chúng tôi đi loanh quanh trong làng Bao La với hy vọng tìm được nhà còn biết đan thúng. Gặp một cô gái lưng áo đẫm mồ hôi, kĩu kịt gánh mạ đi qua, tôi gọi:
- Cô ơi, dừng lại cho tôi hỏi một chút. Cô biết ở đây, có nhà nào đan thúng không? Chỉ giúp tôi với.
Cô gái đặt gánh xuống, lấy tay vén mấy sợi tóc vương trán:
- Ở làng này không ai đan thúng hết. Các chú đi ra làng gần ngoài phá Tam Giang. Qua Sịa chừng hai cây số rưỡi hỏi thôn Thuỷ Lập. Thôn Thuỷ Lập là làng Bao La ngoài đó. Làng này là Bao La trong.
- Đây ra đó xa không cô?
- Gần hai mươi cây.
Chúng tôi đã đến làng Bao La nhưng lại phải đi tìm làng Bao La khác.

Hơn mười năm trước chúng tôi có dịp qua thị trấn Sịa, thủ phủ của huyện Quảng Điền bây giờ. Hồi ấy, bên ngoài chợ Sịa lèo tèo vài hàng quán, chợ đông không dậy không khí ồn ã, lao nhao tranh mua tranh bán của một khu chợ thị tứ vùng xa. Con đường tỉnh lộ 11A lổm ngổm đá và bến đò Cồn Tộc qua Vĩnh Tu vắng teo, hun hút gió Tam Giang. Lần này tôi trở lại, khu chợ rộn ràng, quán xá mọc lên san sát, người người về chợ đông vui. Sức sống một vùng quê đang nở nang, lớn dậy từng ngày.
Ở chợ Sịa, chúng tôi chạy xe gần 3km nữa là bắt đầu vào thôn Thuỷ Lập(còn gọi là làng Bao La ngoài) thuộc xã Quảng Lợi hai lần được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Xã Quảng Lợi trải dài theo phá Tam Giang 10km, là một dải đất cát bạch sa bạc màu. Cư dân sinh sống theo mô hình cát- nhà- ruộng - phá với 1511 hộ, 7459 nhân khẩu. Chia ra 10 thôn, trong đó 1 thôn đan đát mây tre truyền thống là làng Bao La ngoài, 2 thôn ngư nghiệp và 7 thôn nông nghiệp. Ở đây, nông nghiệp chủ yếu trồng cây lạc vì cây lúa cưỡng (lúa địa phương) chỉ một vụ, năng suất kém. Ngư nghiệp, chuyên nuôi trồng thuỷ sản. Hiện nay, nuôi 68 lồng cá, thả 68 vạn con cá giống.
Làng Bao La ngoài có 1717 nhân khẩu trong 380 hộ. Cả 380 hộ đều gìn giữ nghề đan lát thúng, mủng truyền thống.
Hơn trăm năm trước, một số bà con trong làng Bao La gồng gánh gia đình theo đuôi con cá ra ngụ ven phá Tam Giang và đứng chân trên thôn Thuỷ Lập này, đến nay đã vào đời thứ năm. Vì hồi đó ở làng Bao La khe thấp, guồng nước lên đồng rất khó. Bà con sống trên đất mới tuy vẫn cày cấy trên đất cát bạch sa, nhưng vẫn tập tành thêm nghề đánh bắt cá, tôm, cua trong đầm phá và lưu giữ nghề đan đát mây tre truyền thống. Mới đầu, dân ngụ cư vẫn đan giần, sàng, rổ, rá như trong làng cũ, sau vì nhu cầu sinh sống ven đầm phá bà con chuyển sang đan thúng, mủng.
Bác Tạo chiêu một hớp trà ướp hoa sói rồi cất giọng ồm ồm:
- Muốn đan được một cái thúng phải qua các việc: Đầu tiên ra Phò Trạch, An Lỗ hay lên tận Cù Bi, Hiền Sĩ, mua lồ ô. Bình quân giá một cây về đến làng là 5.000 đồng. Cưa lấy đoạn gộc vót vành tròn lót trong, vót vành ngoài lép, đoạn giữa chẻ nan vót láng đan mên, khúc đọt chẻ mảnh hơn, nhỏ hơn để đát thành miệng thúng. Lận vành phải người lớn quen tay mới lận được. Nức vành thúng phải nức lật đôi, thúng nhỏ nức dày 90; nức lật, thúng lớn thì nức trăm hai, trăm ba; nức lật cái thúng mới chắc nụi. Sau cùng đốt lửa rơm hui cho cháy xơ tre, cho cái thúng bén lửa ngả màu vàng ruộm khói bếp để chống mọt. Một ngày sức tui đan được một cái thúng từ ra tre, vót, chẻ, lận, nức vành. Đem bán tại đây được 6.000 đồng, trừ chi phí tre pheo 1.000 đồng còn lãi công được 5.000 đồng. Dù ít ỏi là vậy, nhưng nghề đan đát vẫn giúp bà con làng tui bù chì cho những lúc mưa gió, lúc giáp hạt hoặc sắm sửa, may mặc vào những dịp lễ, tết.
Tôi đem thắc mắc của mình về lối chọn rể của người xưa. Bác Tạo cười xoà nói:
- Nết nông dân tụi tui không ưa làm dối. Các cụ muốn đánh giá ở độ khít khao của tấm mên khi chàng rể quăng mạnh ra xa, vành bung nhưng tấm mên vẫn sít rịt với nhau.
O Hường trước ở xóm Chợ làng Bao La trong góp chuyện:
- Tôi cũng có nghe mấy thím trạo miệng như vậy. Nói thiệt với các anh, đan được một cái thúng đôi bung vành mà mên còn nguyên cũng phải giỏi tay nghề mới đan được. Các anh biết không. Đan rổ sưa phải dùng tre cật đan lòng mốt, trệt đan lòng ba, lòng bốn. Bốn góc đan lòng năm, phía đát để lận vành đan lòng ba. Xưa người ta chỉ nức lác mây, bây chừ có người nức gấc. Nức chi thì chi cũng phải nức chặt, sít, đều thúng mới lâu bung vành. Còn chuyện chọn rể tôi cũng có nghe mệ tôi nói. Một cái thúng sáu bảy sợi lật, chàng rể phải dấu các múi chắp khi nối hai sợi lật với nhau trên miệng thúng thật lỏng, nhưng không thấy các múi chắp và nức sưa. Khi quăng, phải lén giữ một múi lật và rút mạnh thì vành thúng bung ra nhưng mên vẫn chặt chịa không bung. Các anh biết không, đan áo len thì bắt đầu đan dưới bo áo đan lên cổ áo, khi tháo thì tháo trên cổ áo tháo xuống, kéo qua, kéo lại cuốn thành một cuộn len liền sợi. Chàng rể rút một múi chắp cũng vậy.
Tôi mới vỡ lẽ ra. Hoá ra các cụ chọn rể cho con gái làng Bao La không chỉ khéo đan đát mà thôi, còn phải khéo ứng xử, khéo thực hiện ý chỉ của các cụ một cách khôn khéo, thông minh hòng sau này đủ tài trí nuôi vợ đợ con.
Tôi còn được xem o Hường đan mên thúng. Đan xong o trải mên ra, dùng mấy ngón chân dằn mên lại rồi lấy một cật tre gộc, lép, chấn vào các mắt mên, dùng dùi cui tre gõ nhẹ lóc cóc, thúc những ô vuông nan tre sít chặt với nhau. Hèn chi bột không lọt qua được! Và ngày xưa bà con còn dùng thúng gánh nước dưới sông lên được...
Thúng, mủng Bao La không chỉ đứng trước nguy cơ xâm lấn thị trường của các mặt hàng nhôm nhựa hoa hoè, mà còn bị xâm lấn bởi cái độ tốt, bền, lâu hư và giá thành quá rẻ của mỗi cái thúng. Tưởng như nghịch lý, nhưng rõ ràng tốt quá người ta ít mua thay, giá rẻ không kinh tế! Tình trạng này kéo dài liệu câu ca có thành cổ tích hay không?
Ông Phó Chủ tịch xã Quảng Lợi tâm sự:
- Thu nhập của người đan đát rất thấp, nhưng tận dụng được lực lượng nhàn rỗi. Giữ gìn nghề truyền thống này chúng tôi có dự án ban đầu với gần 76 triệu đồng cho vay quay vòng

để mua nguyên vật liệu trả vốn và lãi từng tháng một.
Vâng, đó là điều kiện ban đầu để bà con có vốn hành nghề. Theo tôi, muốn làng nghề lưu truyền mãi thì nên tìm được đầu ra, như trước đây các mặt hàng của hai làng Bao La xuất khẩu sang Liên Xô chẳng hạn. Và còn kịp thời thay đổi mẫu mã, phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người nông thôn lẫn thành thị. Ví dụ đan giỏ xách, các kiểu lẵng hoa...
Chúng tôi từ giã làng Bao La ngoài. Tôi tin tưởng rằng dù có vật đổi sao dời thì nghề đan lát mây tre của hai làng Bao La vẫn mãi được gìn giữ, lưu truyền bởi tính cần cù, nhẫn nại của bà con nông thôn. Đó là lòng son sắt với đất đai, quê hương, với họ mạc, tổ tông. Thúng, mủng Bao La sẽ tiếp tục chảy mải miết vào ngày tháng, lòng dân bằng câu ca.
Trại viết Quảng Điền, tháng 6 năm 2001

NGUYỄN VĂN VINH
(nguồn: TCSH số 150 - 08 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!

  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)