Nhà thơ Thanh Hải - Ảnh: internet
Sau 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không ở Hà Nội, tôi, nhà thơ Thanh Hải, nhà văn Tô Nhuận Vỹ được điều động trở lại chiến trường lần thứ hai. Tôi và Tô Nhuận Vỹ đang ở vào những ngày cuối của trại viết văn Hội Nhà văn Nghi Tàm, Quảng Bá. Thanh Hải đang ở trung tâm điều dưỡng cán bộ trung cao cấp chính trị Gia Lâm. Ba chúng tôi được Ban tổ chức trung ương quyết định điều vào Khu ủy Trị Thiên để thành lập tờ tạp chí Văn nghệ Trị Thiên Huế. Rời Hà Nội vào thời điểm chiến trường miền Nam, kể cả Trị Thiên giữa ta và địch đang giằng co chiến lược hình da báo. Hồi đó anh Thanh Hải và chị Thanh Tâm vừa mới cưới nhau chưa được bao lâu phải tạm biệt xa nhau. Ra đi trong người anh vẫn mang bệnh gan dai dẳng, chữa trị tối ưu trong, ngoài nước vẫn không hề thuyên giảm. Anh chia tay chị Tâm với nụ cười thanh thản, tin tưởng không bộc lộ sự băn khoăn bịn rịn nào cả. Vốn dĩ nhà thơ là người ít lời, cho dù nội tâm bộn bề, ngổn ngang trăm thứ nhưng bên ngoài vẫn đủng đỉnh, yên ắng. Đoàn xe zin khơ màu thiên thanh, chất đầy hàng chi viện miền Nam đang xếp nối đuôi nhau thành hàng dài quanh khu vực Văn Miếu chờ chúng tôi. Ba chúng tôi được xếp ngồi vào ca-bin của ba tài xế dạn dày khói lửa chiến tranh. Đoàn xe đồng loạt nổ máy. Nhà văn Tô Nhuận Vỹ vẫn chưa can đảm bước lên xe. Anh và Phạm Thị Cúc, cô vợ cưới trước Thanh Hải hơn những hai ba năm xem ra vẫn còn xoắn xuýt bịn rịn, khó rời nhau như những đôi tình nhân trong mùa trăng mật. Tay trong tay, sát rạt vào nhau. Tình cảm da diết ấy có lẽ đã nối dài từ hình ảnh cô sinh viên Huế xinh xắn, son trẻ với chàng phóng viên báo Cờ giải phóng quân phục màu lính mạnh khỏe, đẹp trai choáng váng trong tiếng sét ái tình giữa chiến dịch Mậu Thân 1968 rồi bên nhau suốt thời gian chàng phóng viên bị thương trôi dạt về Phú Đa, Hương Thủy. Để rồi cô sinh viên Phạm Thị Cúc trở thành nhân vật chính theo cuộc hành trình dài xuyên suốt qua hàng ngàn trang viết trong ba tập tiểu thuyết Dòng sông phẳng lặng của nhà văn trẻ Tô Nhuận Vỹ. Trước cảnh tượng tuyệt vời của hai con người, nhà thơ Thanh Hải giơ cánh tay lên cao, vẫy gọi chiếc xe đi đầu: “Đợi cho một chút nữa”. Thanh Hải nhìn tôi cười với vẻ mặt thông cảm, độ lượng. Xe lăn bánh, Tô Nhuận Vỹ mới chịu bước lên ca-bin. Một tay anh vịn thành cửa xe, tay kia vẫy vẫy liên hồi trước hai cánh tay dài của chị Cúc chới với như hai cánh chim non đang tập bay trong bóng dáng gầy, cao, xa dần và khuất mờ vào trong những hàng cây bên bức tường dài Văn Miếu. Đến rừng. Có lẽ hình ảnh đậm đà giờ phút tạm chia tay ấy như đang chập chờn trong không gian chật hẹp nên nhà văn nằm dài và không một chút giấu giếm: “Tội nghiệp cho Cúc quá!” Một nhà thơ và một nhà văn. Hai con người ra đi mà chưa gởi gắm lại một chút của quý nào cho hai người vợ nhưng tình cảm của hai con người biểu hiện hoàn toàn khác nhau. Dọc đường Chín từ thị xã Đông Hà ngược lên, rẽ trái theo đường 14, đến Sa Trầm, nơi đóng quân của đội xe khu ủy, ba chúng tôi phải mang vác tư trang, tài liệu lội suối, băng rừng lần lượt ngang qua cơ quan bộ đội Biên phòng, Y tế, Bệnh viện, An ninh, trường Đảng, Dân vận và cuối cùng là cơ quan Ban tuyên huấn khu ủy Trị Thiên. Dỡ tháo đồ đạc trên người, thở phào. Mồ hôi ròng ròng ướt sũng. Có lẽ sức mạnh của cơ quan này là ngôn từ, tiếng nói thao thao, chân cò tay nhện nên xếp tít trong cùng, lội bộ, sái cả đôi giò hơn hai giờ liền mới tới nơi. Phó ban Trần Hoàn, thủ trưởng, con người chính trị nhưng tâm hồn là một nhạc sĩ, nhà thơ nên ông sắp xếp cho ba chúng tôi một chỗ ở khá lý thú. Nhiều bộ môn phải dồn ghép lên các nhà phía trên đồi. Ngôi nhà chúng tôi ở cũng là tranh tre, lá rừng nhưng được tọa lạc cạnh bờ suối. Gần sát mép nước lại có một ghế tựa dài, bằng tre và gỗ được buộc chặt vào các gốc cây làm giá đỡ. Phía trên ghế tựa được che phủ một dàn cây dây leo phủ một màu xanh mát mắt. Thỉnh thoảng lại có những bầy chim nho nhỏ đủ màu sắc râm ran, ríu rít hòa trong tiếng suối róc rách xa xa. Lâu lâu lại phảng phất hương thơm của các loại hoa rừng cuốn theo những giây phút bầy chim cất tiếng liu riu. Sau những giờ viết lách thư giãn một chút sau những bữa cơm sáng, cơm trưa nếu đặt lưng vào ghế tựa để nhìn ngắm bầy chim chao cành chíp chíp hắt bóng dáng xuống dòng suối trong veo thì thú vị biết nhường nào. Giờ phút ấy cứ ngỡ như diễm phúc ngự quảng ở thiên đường, thần tiên của núi non. Nắm được đường đi lối lại, nơi in ấn tờ tạp chí, nhà thơ Thanh Hải hăng hái “xung phong - xuất trận” thực tế A Lưới. Tô Nhuận Vỹ trực tòa soạn. Tôi về lại đường Chín, thực tế các chốt da báo dọc sông Thạch Hãn, Quảng Trị. Tô Nhuận Vỹ viết đứng. Anh sáng tạo bàn viết bằng bốn thùng gỗ chồng lên nhau cao ngang khuỷu tay. Mỗi lần sáng tác anh lại nhìn ra bờ suối, ngắm ngược lên dàn cây trên ghế tựa để lấy cảm hứng. Thanh Hải thì xếp bằng viết ngồi trên sạp nằm. Tòa soạn chúng tôi khách khứa lui tới nhiều. Có lần đoàn văn công Trị Thiên vui chân sà đến râm ran tiếng cười giọng hát của các cô nàng xinh đẹp. Họ nán lại khá lâu và trầm trồ khen nhà văn ăn nói có duyên, đẹp trai. Những cuộc giao lưu như vậy Thanh Hải chỉ ngồi cười, nghe và thỉnh thoảng ai đụng đến thì trả lời vài câu góp chuyện ngắn gọn. Ôi chao! Sau lần gặp kỳ lạ đó nhà văn viết ngày, chong đèn dầu viết đêm như thể bắt nguồn cảm hứng bồng bềnh tuôn trào. Không biết từ lúc nào nhà thơ đọc lén được và hớn hở mách chuyện với tôi: - Cha nội viết hay thiệt! - Viết chi? Tôi hỏi. - Hắn tả bầy chim thường lui tới trên giàn cây hay lắm! - Đầu đề là chi? - “Khoảng trời màu xanh”. - Răng anh không lấy cớ ấy để thành thơ? - Hắn nhanh hơn mình, tài thiệt! Ôi chà chà! Một nhà thơ nổi tiếng mà nức nở khen một nhà văn có tài viết hay, liệu có ngược quy luật muôn thuở “văn mình vợ người” không? Thanh Hải chân chất là vậy. Từ đó tôi hồi tưởng cảnh Tô Nhuận Vỹ nồng nàn tiếp các cô nàng văn công, rồi nhiệt tình tiễn đưa một chặng dài dọc con suối sang quân khu. Nhà văn viết loáy hoáy say sưa suốt ngày đêm tôi cứ ngỡ viết nối dài “Dòng sông phẳng lặng” từ duyên cớ hai cánh tay chới với như hai cánh chim non tập bay của Phạm Thị Cúc. Không ngờ đó là chuyện ni. Chuyện cô nàng văn công xao xuyến. Cô nàng ôm gọn chiếc áo len xanh của chàng vào ngực hóng chuyện để mãi bấy giờ vẫn còn hơi nóng chuyền sang. Từ đó mới nhận ra rằng nghệ sĩ luôn luôn tìm đến cái mới. Cái nghiệp đeo đẳng nhà văn éo le đến khó lường. Nếu không có như vậy thì đâu còn sáng tạo, đâu còn nổi danh tài hoa. Được cái này mất cái khác để rồi “oan gia” cái tội không chung thủy. Để rồi song hành nổi tiếng cả hai. So với nhà văn, nhà thơ Thanh Hải ngược chiều trăm phần trăm. Nhà thơ lấy vợ muộn, chị Thanh Tâm cảm nhận chồng mình cũng trên hai khía cạnh nhưng lại là chính trị và nhà thơ. Ở chung với nhau, mỗi lần đi về, Thanh Hải đều có quà cho chúng tôi và cất lời nhẹ nhàng: “Có khỏe không? Vỹ mô rồi?” Một hôm, trời sang hè, rừng vẫn lạnh, Tô Nhuận Vỹ nằm lỳ không chịu dậy ăn sáng. Anh nằm đắp tấm ra trùm lên cả đầu. Thanh Hải vừa dỡ tấm ra vừa hốt hoảng: “Vỹ sốt rồi!” Hai ngày liền Vỹ bỏ cơm, cháo húp qua loa vài thìa. Thanh Hải xuống tận bếp bày vẽ cô cấp dưỡng tên là Hương cách thức nấu cháo, ruốc thịt băm, muối hầm nên bỏ riêng tùy thích lựa chọn của người bệnh. Chiều hôm sau Vỹ vẫn sốt, nhiệt kế cao vút. Thanh Hải lục túi cá nhân tìm thuốc. Anh còn điện thoại xin ý kiến tư vấn người thân ở bệnh viện cách điều trị. Anh đi lên, xuống nhà bếp với vẻ mặt băn khoăn lo lắng. Lúc này anh đã quên hẳn động tác đưa bàn tay xoa xoa ở vùng mép sườn dưới bên phải, vùng bệnh gan âm ỉ quấy rầy sự bình an của anh. Anh đề xuất sáng mai đi Quân khu. - Chấm bài xong, vài ngày nữa mới có tạp chí! Tôi băn khoăn. - Đi xin gà. Thanh Hải trả lời gọn lỏn. - Nuôi à? - Nấu cháo. Vỹ ăn ít quá! Ban tuyên huấn không có nhà in. Chúng tôi in nhờ tạp chí ở nhà in Quân khu. Mọi chi phí cánh nhà báo quân khu Trị Thiên lo trọn gói. Hai chúng tôi thả những bước chân dài trên suối vừa nhắc lại cảnh các cô nàng văn công xinh đẹp chao liệng gót son trên dòng suối trong veo đang còn “hành quân” trên mặt bàn viết của Tô Nhuận Vỹ. Giá như các cô nàng lội suối cùng chúng tôi lần nữa để có dịp so sánh chất văn hoa có tài của Tô Nhuận Vỹ trong “Khoảng trời màu xanh” định vị khoảng này hay khoảng mô? Bạn hữu báo Quân khu thấy nhà thơ Thanh Hải xuất hiện liền hồ hởi òa ra như thể lâu ngày mới gặp nhau. Họ bắt tay, quàng lưng, nhìn ngắm dung nhan như thể tìm kiếm, giãi bày thêm sự nổi tiếng của nhà thơ mà mọi người dân Việt Nam, một số bạn bè thế giới chiêm ngưỡng cái tên Thanh Hải lừng danh từ chiến tranh ác liệt ở miền Nam Việt Nam. - Hai anh đi nhận tạp chí à? - Tuần nữa mới có. Tôi trả lời. - Vỹ sốt! Xin gà nấu cháo. Thanh Hải bộc bạch gọn lỏn. Các nhà báo Quân khu: Huyền Dân, Vũ Thuộc, Vũ Huế, Nguyễn Trọng Bính, Bùi Kim... có vẻ bối rối khi nghe Tô Nhuận Vỹ ốm. Họ vặn hỏi cặn kẽ sốt cao không? Có thuốc gì uống chưa? Mới gặp còn khỏe mạnh sao ốm nhanh thế? Mọi người chia cụm ra vây bắt gà. Nguyễn Trọng Bính còn hăng hái chuẩn bị các loại thuốc đi cùng chúng tôi sang thăm Vỹ. Gà hầm với gạo, tí muối, thêm chút bột ngọt thơm lừng, nóng hổi còn kèm theo vài quả ớt rừng chống đắng miệng cho người ốm. Ngon thế mà Vỹ chỉ nuốt nổi lưng bát và vài miếng thịt gà xé nhỏ. Thanh Hải nài nỉ hoài, Vỹ vẫn lắc đầu. Hớp vài ngụm nước lá rừng, Vỹ lại trùm chăn thở dốc. Thanh Hải bưng soong cháo xuống bếp nhờ nhà bếp cất đặt cẩn thận để ép Vỹ ăn thêm vào buổi chiều. Năm hôm sau Vỹ mới cắt được cơn sốt. Thanh Hải và tôi lội suối sang Quân khu nhận tạp chí. Ba lô Thanh Hải cộm lên một cái thùng cộm trì nặng sau lưng. - Chi rứa? Tôi hỏi. - Xin thêm một thùng lương khô. Thanh Hải cười. Thường xuyên buổi ăn sáng cơ quan chúng tôi mỗi người vỏn vẹn một bát cơm với muối hoặc nước ruốc pha loãng. Người ốm như Vỹ khó bề nuốt trôi. Thanh Hải giải thích là để cho Vỹ ăn sáng hoặc ăn dặm khi đói. Rừng cũng lắm chuyện gian nan, khổ cực nhưng rừng cũng nhiều chuyện vui, chuyện đáng nhớ. Tô Nhuận Vỹ lại sốt, lại phải trở về hậu phương miền Bắc chữa bệnh. Gần năm sau Thanh Hải lại ôm bụng với bệnh gan tái phát tiếp tục ra Bắc chữa bệnh lần thứ hai. Xa nhau cũng chẳng bao lâu, sau 1975 Thanh Hải, Tô Nhuận Vỹ và tôi lại tụ tập nhau cùng ngôi nhà văn nghệ Bình Trị Thiên 26 Lê Lợi - Huế. Lại một câu chuyện nữa nhưng không phải là hai cánh tay yếu ớt chới với như hai cánh chim tập bay của Phạm Thị Cúc và cũng không phải chuyện lãng mạn của núi rừng râm ran, những gót son chao lượn trên mặt suối trong “khoảng trời màu xanh” mà manh nha cho một đầu đề “Áo trắng” hay “Ngoại ô” sắp diễn ra. Nhà văn Tô Nhuận Vỹ lại lăn lộn thực tế để tiếp tục thai nghén. Thế là tiếng đồn đại của những con người thiếu tiền, thừa miệng, tiếng vặn vẹo nổi cồn cơn ghen đã làm cho nhà văn nổi tiếng lại một phen nổi tiếng tiếp. Hồi đó nhà thơ Lương An làm bí thư chi bộ. Tôi làm phó. Có nhiều vị cấp trên một chút, vài đảng viên có tuổi đảng cao trong chi bộ đề xuất kiểm điểm, kỷ luật. Chúng tôi gặp khó khăn dồn ép nhiều phía. Nhà thơ Thanh Hải lại tỉnh bơ: “Có chuyện chi mà kiểm điểm. Có bắt được tay vày được cánh mô mà kỷ luật. Đang là chuyện đồn thổi, mà nếu có thì khuyên Vỹ khai là đã yêu; đằng sau yêu người ta mần chi kệ họ”. Có lần Thanh Hải nhỏ nhẹ như chỉ bộc lộ với tôi: “Hắn có tài, để cho hắn hót”. Bao nhiêu người xằng bậy trời sợ mà có “hót” được chi mo”. Tôi đồng cảm với Thanh Hải nhưng lắm lúc tự vấn tại sao Thanh Hải hiền lành đôn hậu, đâu có những cuộc tình mớm tài để “hót” thành thơ, để thành tên tuổi nổi cồn như vậy? Đó cũng là những bí ẩn dành riêng cho những nhà nghiên cứu phê bình văn chương. Thế là mọi chuyện được dàn xếp yên ổn. Tác phẩm mới của nhà văn Tô Nhuận Vỹ ra đời trên văn đàn, trên phim ảnh. Vào những ngày cuối năm 1980, nhà thơ Thanh Hải gần như đầu hàng với bệnh gan dai dẳng. Thân hình anh ốm o, đôi mắt to, sâu hoắm, thỉnh thoảng anh vẫn cố gượng cười như cố che giấu cơn đau cắn xé ở vùng gan triền miên không dứt. Đôi chân anh tê lạnh dần lên phía trên. Anh nhờ tôi nắn bóp thật mạnh vào hai bàn chân như muốn kéo dài sự sống hiếm hoi quý giá. Bên cạnh anh có chị Thanh Tâm, ba con trai còn nhỏ và nhiều bạn bè xa gần lui tới. Anh kéo tay tôi sát mặt anh: “Vỹ đi mô; thấy vắng? Có viết chi nữa không?”. Tháng 12 năm 1980 nhà thơ Thanh Hải đã ra đi vĩnh viễn. Một nhà thơ, một con người chân chất, cả cuộc đời luôn luôn quan tâm đến người khác đặc biệt là người có tài nhưng ít khi anh mong muốn người khác phải quan tâm đến với mình. Quả là điều lạ! V.M.L (258/8-10) |
Cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao luôn là những bí ẩn đối với hậu thế. Ai sẽ là người dựng lên được một Văn Cao - một trong những tượng đài của dân tộc Việt Nam thế kỷ 20, nhưng cũng là một con người của cuộc đời thực với những vui buồn, đớn đau, hạnh phúc...?
NGUYỄN KHẮC PHÊLần này, tác giả bộ trường thiên tiểu thuyết viết về thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ "Sông Côn mùa lũ" (SCML) trở lại thăm nơi vua Quang Trung lên ngôi khi Huế vừa sang thu. Nước sông Hương do những trận mưa đầu mùa trên đại ngàn cuốn đất bùn con đường lớn Trường Sơn vừa xẻ rộng tràn về, không còn trong xanh như dịp ông về thăm Huế mùa hè hai năm trước, nhưng Cố đô qua hai kỳ Festival, nhiều khu phố được tôn tạo, khang trang hơn nhiều. (*)
VĂN THAOTháng 10-1944, nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác bài hát Tiến quân ca trên một căn gác nhỏ tại số nhà 45 phố Nguyễn Thượng Hiền. Căn gác này cũng là nơi Văn Cao đã sống và hoạt động cách mạng từ năm 1944 đến ngày toàn quốc kháng chiến 22-12-1946. Đội danh dự Việt Minh do Văn Cao phụ trách cũng từ đây toả đi làm nhiệm vụ. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí Vũ Quý, Lê Quang Đạo, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Thành Lê... cũng đã thường xuyên dùng địa điểm này để hoạt động trong những năm đầu cách mạng. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của Văn Cao như: Bài thơ Chiếc xe gác qua phường Dạ Lạc; các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam đã ra đời tại đây.
VĨNH NGUYÊNHội VHNT Thừa Thiên Huế chủ trương đưa văn nghệ sĩ về bám sát thực tế địa phương, vùng sâu vùng xa, nên những năm gần đây đã liên tục mở trại sáng tác ở các huyện trong tỉnh. Các năm trước là Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thuỷ và năm 2004 này là Phú Lộc.
PHAN THÀNH TRUNGMột ngày đẹp trời. Lễ mừng thọ cụ Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi được tổ chức vui vẻ, trân trọng tại Chòi ngắm sóng Hồ Tây, đúng vào ngày kỷ niệm Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 1992. Với danh nghĩa là em kết nghĩa của cụ Đang, Phùng Cung và Phùng Quán đã đứng ra tổ chức lễ thọ này. Hai nhà thơ vốn quen tính vui đùa dí dỏm đã gọi hóm là “Mừng sống dai”...
“Cụ Hồ Chí Minh được nhân dân rất quý mến. Tên cụ có nghĩa là “sáng suốt”. Cụ là một nhà chính trị xuất chúng, một nhà chiến lược Cách mạng, một người yêu nước nồng nàn. Cụ đã nêu gương chính nghĩa và đạo đức cho thế hệ thanh niên noi theo” (Nhà báo Mỹ - Starôbin)
NGUYỄN KHẮC PHÊNếu không có nghị lực hơn người, nhà giáo ưu tú - nhà nghiên cứu Văn Tâm đã bước sang thế giới khác từ 7- 8 năm trước rồi, sau cơn tai biến mạch máu não “thập tử nhất sinh”. Nhờ kiên trì tập luyện và đủ thứ thuốc men, từ bên “cửa tử”, dần dần anh đã “phục sinh” và với cây gậy ngắn để có thể tự đi lại trong nhà khi cần lục tìm tư liệu, cây bút nghiên cứu phê bình cẩn trọng mà không thiếu sự sắc sảo Văn Tâm đã cống hiến cho nền văn học chúng ta những tác phẩm dày dặn và thật sự có chất lượng: “Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm” (1995, tái bản 2002), “Vườn khuya một mình” (2001), “Tản Đà khối mâu thuẫn lớn” (2003 - Tái bản, bổ sung). Một số bài nghiên cứu gần đây của anh về nhà văn Phùng Quán và nhà thơ Bằng Việt đăng trên “Sông Hương” cũng rất công phu, đồng thời vẫn thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận vẻ đẹp của văn chương.
(Trích) Lê Mỹ Ý: Thưa ông, đã từng là "Người đi tìm mặt " trong thơ, đến bây giờ ông đã tìm được khuôn mặt của mình chưa?Hoàng Hưng: Tôi thấy rằng cái mặt của tôi, bản thân cái mặt đó nó cũng không phải là một cái mặt và cũng không phải là bất biến qua thời gian, ngay cả trong từng lúc nó cũng không chỉ là một cái mặt mà nó có đến vài cái mặt. Qua thời gian lại càng có sự diễn biến. Việc đi tìm cái mặt của bản thân thực ra có những người không bao giờ thấy cả, tức là không biết mình như thế nào.
Tháng 4 năm 1988, khi đang chữa bệnh ở chùa Pháp Hoa (Đồng Nai), trong một bức thư gửi bạn, nhà văn Nguyễn Minh Châu tâm sự rằng ông vẫn thèm viết tiếp một bài về vấn đề “Nhà văn và sự nghiệp dân chủ hóa đất nước” Nhưng rồi bệnh ngày càng nặng khiến ông cho đến khi qua đời đã không thực hiện xong dự định. Tuy vậy đồng nghiệp và bạn đọc vẫn may mắn được biết ý kiến căn bản của ông về vấn đề này.
VÕ THỊ QUỲNHĐến Hội Văn nghệ một chiều xuân Giáp Thân, tết còn đỏ hạt dưa, còn thắm mai vàng, còn hồng hoa đào và còn lủng lẳng tròn trịa những quả quất trĩu cành - chúng tôi tưởng nhớ anh - nhà thơ luôn dịu dàng, luôn hiền hoà: XUÂN HOÀNG. Bao kỷ niệm một thời nhà thơ sống gắn bó sáng tạo với Bình Trị Thiên, với Huế lại ùa về trong lòng những người đến thắp hương kính viếng hương hồn anh - chiều nay...
VÕ QUÊNhững ngày đầu xuân Giáp Thân, giới văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế vô cùng thương tiếc khi nghe tin nhà thơ Xuân Hoàng đã từ trần vào ngày mồng 3 Tết (24.1.2004) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đi của nhà thơ Xuân Hoàng là một tổn thất lớn đối với phong trào văn học của khu vực Bình Trị Thiên ruột thịt và của cả nước.
HỒ THẾ HÀ Ngày thơ Việt Nam chính thức được mang tên, đến nay, đã tròn một năm. Một năm là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng trong ý nghĩ và dự cảm của mọi người suốt dòng chảy văn hoá, để thi ca trở thành hiện thực như hôm nay là một quá trình trải nghiệm của lịch sử và truyền thống lâu dài của dân tộc Việt Nam-một dân tộc yêu thi ca, có tiềm năng, trữ lượng và những giá trị thi ca không bao giờ vơi cạn.
PV: Là một nhà văn nổi tiếng với những tập truyện ngắn Người sông Hương, Làng thức... và các tiểu thuyết Ngoại ô, Dòng sông phẳng lặng (3 tập), Phía ấy là chân trời... những đứa con tinh thần của anh ra đời gần như tập trung liên tục trong khoảng hơn mười năm (trước và sau 1975). Trừ một số bài viết ngắn đăng ở báo và tạp chí, nếu tôi không nhầm thì, tác phẩm gần đây nhất của anh, tiểu thuyết Phía ấy là chân trời, hình như xuất bản từ năm 1988? Tại sao anh "dừng lại" đột ngột và lâu như vậy?Tô Nhuận Vỹ (TNV): Với lý do gì đi nữa thì việc "tịt đẻ" lâu như vậy cũng là chuyện chẳng hay gì đối với một nhà văn. Trong thời gian tôi "tạm dừng" đó, nhiều tác giả bạn bè tôi đã lao động miệt mài, "đẻ" hàng chục "đứa con tinh thần" rồi đó.
NGUYỄN ĐÌNH SÁNGNăm 1975, lần đầu tiên tôi gặp nhạc sỹ Trần Hoàn tại Hà Nội. Lúc đó, tôi đang an dưỡng tại Ban thống nhất Trung ương và có ý định xin về Huế công tác. Nhà thơ Cù Huy Cận Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin lúc bấy giờ đã bảo tôi đến gặp nhạc sỹ Trần Hoàn để trình bày nguyện vọng. Anh tiếp tôi với một ngôn ngữ hết sức dân dã, mang đậm chất miền trung. Anh hỏi: “Mi quê mô?” Tôi thưa cùng anh: “Em người Quảng Trị.” Anh hỏi tiếp: “Rứa mi học cái chi?” Tôi thưa: “Em học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội.” Anh nheo mắt cười và trả lời: “Đồng ý! Lên Bộ Văn hoá làm quyết định rồi về công tác. Trong miềng chừ nhiều việc lắm...”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOTôi biết nhạc sĩ Trần Hoàn vĩnh biệt cõi trần vào lúc 5 giờ 6 phút ngày 23 tháng 11 tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, nhờ cú điện thoại của một nhà báo gọi đến đặt bài. Đã mấy hôm nay biết ông hôn mê sâu, khó qua khỏi mệnh trời, nhưng khi nghe tin ông qua đời, tôi vẫn chưa tin là ông đã mất.
NGUYỄN TUYẾN TRUNGLâu rồi tôi mới có dịp đến thăm nhạc sĩ Mai Xuân Hoà và cô giáo Nguyễn Thị Hồng - hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu, vẫn ở tại số nhà 71 đường Bến Nghé thành phố Huế.
HỮU THUTrong suốt ba nhiệm kỳ đảm đương cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, với anh chị em làm báo, chú Vũ Thắng thường dành cho những ưu ái, đó là có thể gặp gỡ vào bất cứ lúc nào, dù ở cơ quan hay nhà riêng. Do vậy mà ngôi nhà cũ ở đường Mai Thúc Loan quá đỗi thân thiết với nhiều người làm báo, trong đó có tôi.
VÕ QUANG YẾNỞ Pháp ngưòi ta thường bảo một con chim én không đủ để báo mùa xuân. Tôi thì tin một nữ sĩ có thể chiếu sáng một chiều thu lá vàng mưa bay nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể là nữ sĩ ấy. Chị là thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị.
NGUYỄN HUY THẮNGNhững ngày đầu tháng 12-1954, người dân Hà Nội và khắp các vùng xung quanh nô nức kéo đến Nhà hát Nhân dân xem “văn công”. Văn công là từ bấy giờ dùng để chỉ những buổi biểu diễn văn nghệ trên sân khấu nói chung. Nhưng đợt “văn công” cuối năm 54 ấy mang một tính chất đặc biệt, vì là một đại hội có quy mô lớn (Đại hội Văn công toàn quốc), từ kháng chiến về, lần đầu tiên ra mắt công chúng Thủ đô vừa thoát khỏi ách tạm chiếm.
NGUYỄN QUANG HÀTạp chí sáu tỉnh Bắc miền Trung vẫn duy trì đều đặn hàng năm gặp gỡ giao lưu để cùng tìm cách nâng cao chất lượng tờ tạp chí văn học của địa phương mình. Năm nay, năm 2003 Tạp chí Nhật Lệ đến phiên đăng cai cuộc họp mặt. Khách mời năm nay, ngoài các cơ quan trong tỉnh Quảng Bình, còn có đại biểu của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của tạp chí Diễn đàn, cơ quan ngôn luận của Hội về dự.