Kinh thành Huế và Kinh dịch

17:06 18/12/2008
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

Người thấm nhuần được cái lõi của Kinh Dịch là người biết chấp nhận và vận dụng đúng quy luật về sự biến đổi, không coi thường nó, chống lại nó, cũng không sợ hãi nó. Điều này rất gần với tinh thần của Phật để có thể tiến tới cuộc sống an nhiên tự tại.
Trong quá trình xây dựng kinh đô cũng như các kiến trúc cụ thể của kinh thành Huế, tinh thần Dịch được thể hiện sâu sắc qua từng chi tiết đến toàn bộ tổng thể. Ví dụ, trong cuốn “Từ Ngọ môn đến Thái Hoà điện”, Huỳnh Minh Đức đã phân tích khá sâu sắc về triết lý chữ Văn trong kiến trúc cung điện nhà Nguyễn ở Huế. Từ gốc Kinh Dịch, tác giả đã lý giải ý tưởng của các vua chúa Nguyễn nhằm thể hiện mối quan hệ hài hoà, sống động giữa vạn vật - chữ Văn, trong kiến trúc kinh thành Huế.
Thế còn việc chọn Huế là địa điểm xây dựng kinh đô thì thế nào? Liệu quan niệm Dịch có ảnh hưởng gì đến sự chọn lựa này không? Xin để các nhà văn hoá am hiểu Huế cho câu trả lời. Người viết chỉ dám bình theo cảm tính riêng, rất chủ quan, của cá nhân mình mà thôi.

Trước hết, từ xa xưa Huế là nơi hội tụ của nhiều nền văn hoá. Những dòng cư trú của người Việt, Chăm, Chứt, Bru, Tàôi, v.v... hội tụ, giao thoa tại xứ Huế qua suốt chiều dọc của lịch sử, đã tạo ra một bản sắc rất đặc biệt của văn hoá Huế. Bên cạnh văn hoá Đông Sơn có nét dáng của văn hoá Sa Huỳnh. Xen lẫn vào nền thuần Việt là sắc màu của Chiêm Thành, Chân Lạp. Có thể thấy nét biển trên cao Trường Sơn, đồng thời có thể thấy rõ vết tích nhà sàn ngay tại phá Tam Giang. Đó là chưa kể suốt mấy trăm năm triều Nguyễn những tinh hoa văn hiến xứ Bắc, xứ đã hội tụ, quây quần về đây.
Về mặt tự nhiên, Huế cũng là một xứ rất độc đáo. Bởi là nơi chuyển tiếp khí hậu từ cận nhiệt đới ở phía bắc sang nhiệt đới ở miền nên Huế là nơi tụ hội cỏ cây hoa trái của hai miền nam bắc. Cây ưa lạnh ở xứ Bắc vào, cây ưa nắng nóng từ phía nam ra, đến Huế thì dừng lại, không tiến xa được nữa. Huế không rét như Hà Nội nhưng mỗi năm ít nhất cũng có dăm ba ngày đủ rét để dân Huế xuýt xoa. Huế không nhiều nắng như Sài Gòn nhưng đã nắng là nắng như đổ lửa.

Song đặc điểm nổi bật nhất về thiên nhiên xứ Huế là mưa. Ở nước ta, lượng mưa bình quân hàng năm ở xứ Huế thuộc hàng lớn nhất (dao động từ 2800 đến 3200 mm), có lẽ chỉ sau hai địa phương là Bà Nà (Quảng Nam) và đảo Phú Quốc có lượng mưa trên 4000 mm. Mưa Huế lại tập trung thành mùa, liên miên không nghỉ, đối lập hoàn toàn với những tháng nắng nóng không ngừng của mùa hè. Nắng lắm thì mưa nhiều. Mưa nhiều tất sinh ra lụt. Ở Huế mỗi năm một lụt nhỏ, vài năm một lụt vừa, mươi năm một lụt to, và cứ mấy chục năm lại một đại lụt. Nếu nói Huế là vùng có khí hậu khắc nghiệt nhất nước ta thì chưa hẳn đã đúng. Nhưng nếu nói Huế là nơi có khí hậu mang nhiều sắc thái, và quan trọng hơn, là nơi có biến động thời tiết theo mùa nhiều nhất, mạnh nhất ở Việt thì chắc chắn không sai.

Chúa Tiên Nguyễn Hoàng, gốc tại Gia MiêuThanh Hoá, đã từng ở Thăng Long nhiều năm. Năm 1600, ngài phải bỏ Thăng Long vào . Tiếp nối Chúa Tiên Nguyễn Hoàng, hậu duệ của ông từ Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên ra sức mở cõi về , đến Nguyễn Phúc Ánh thì Việt ta có được hình hài như bây giờ. Cuối thế kỷ 18, Tây Sơn diệt Lê-Trịnh.Đầu thế kỷ 19, Nhà Nguyễn diệt Tây Sơn, kết thúc 3 thế kỷ cướp ngôi, tranh quyền, huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt của lịch sử cận đại Việt Nam. Phát tích từ đất Thanh, ra Thăng Long, rồi mở mang bờ cõi đến tận biển phương Nam, nhà Nguyễn không thể không thông hiểu địa lý nước nhà. Lại càng không thể không đủ tư cách để chọn bất cứ nơi nào “mưa thuận gió hoà” làm kinh đô cho đất nước. Câu sấm của thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm cho Chúa Tiên “Hoành Sơn nhất đái; Vạn đại dung thân” cũng không hề nói rõ phải chọn Huế làm kinh đô. Trong tiến trình “mở cõi về Nam”, nhà Nguyễn đâu chỉ gắn bó với Ái Tử, Trà Bát, Dinh Cát, Phước Yên, Kim Long, Phú Xuân, mà còn Hội An, Quy Nhơn, Phú Yên, Khánh Hoà v.v... đến Đồng Nai, Vũng Tàu - Bà Rịa, Gia Định, Tiền Giang, v.v... rồi Đồng Tháp, Vĩnh Long,An Giang, Kiên Giang, Cả một dải đất mênh mông và không thiếu nơi mưa thuận gióa hoà để có thể làm kinh đô mới, nếu nhà Nguyễn không muốn quay lại với Thăng Long.

Nhưng nhà Nguyễn vẫn chọn Huế. Phải chăng ngoài sự chỉ bảo của Trời Đất (huyền thoại Thiên Mụ), Huế còn là đắc địa đế làm kinh đô? Cái đắc địa của kinh thành Huế, không giản đơn chỉ là “Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ”, với sông Hương, núi Ngự, hay khí thiêng tụ ở Kim Phụng Sơn, trục Thiên - Địa chạy qua Vọng Cảnh Đồi. Sự đắc địa ở đây còn là hệ sinh thái đa dạng nhất so với cả nước. Xứ Huế có đại ngàn Trường Sơn với 2 cái chân lớn cắm ra biển phía xa xa, Hoành Sơn phía bắc và Hải Vân phía nam, ôm gọn nó vào lòng. Xứ Huế có phá Tam Giang lớn nhất vùng Đông Nam Á. Xứ Huế không có đồng bằng mênh mông như Bắc hay Nam Bộ, nhưng châu thổ sông Hương, sông Bồ, xa hơn chút nữa là sông Hiếu, Truồi, Nong, cũng đủ mầu mỡ để nhiều loại cây trái, hoa màu đặc sản chọn làm quê hương. Ngay tại lúc này, cái thời mà môi sinh đang bị xói mòn phá huỷ với tốc độ chóng mặt, hàng ngày người dân Huế vẫn có thể thưởng thức đủ loại thực phẩm tươi sống từ biển từ đầm phá lên hay chim thú từ rừng núi xuống. Những thứ đắc địa đó dễ thấy và đương nhiên cũng có thể là những lý do để nhà Nguyễn chọn Huế làm nơi “Vạn Đại dung thân”.

Nhưng có lẽ còn một lý do nữa, một sự “đắc địa” đặc biệt nữa để kinh đô nhà Nguyễn phải là Huế. Đó là sự nắng lắm mưa nhiều, nóng lạnh thay nhau bốn mùa chế tiết với mức độ, tính chất chuyển dịch độc đáo nhất so với cả nước. Đó là hạn cháy đồng, mưa sụt núi. Đó là chuyển động của lửa, của nước, của gió, quyện hoà với đất với người, để tạo nên và duy trì Hồn Thiên Sông Núi. Đó là Dịch.
Phải chăng nhà Nguyễn đã ngộ ra cái diệu huyền của luật đất trời qua Kinh Dịch mà chọn Huế? Mưa nhiều, lụt thường xuyên, phải chăng là để tẩy rửa những gì cũ kỹ, những uế khí, để gây nên những cuộc sinh thành mới, để bồi bổ thêm cho nguyên khí quốc gia? Mới sống ở Huế hơn hai chục năm, tôi chưa thể hiểu nhiều về Huế. Nhưng có một câu hỏi cứ lẩn quất trong tôi từ ngày được biết thế nào là mưa lụt xứ Huế: xét về mặt thời tiết khí hậu, cứ qua đèo Hải Vân vào đất Quảng là đã thấy dễ chịu hơn Huế nhiều, lẽ nào các bậc vua chúa nhà Nguyễn lại thích cánh nắng cháy trời, mưa thối đất, để mà ở Huế mấy trăm năm? Cân nhắc đủ đường, tôi tự tìm câu trả lời: Đất nước mình thời đó không thiếu những nơi hội đủ các tiêu chuẩn để lập kinh đô, nhưng yếu tố mưa dầm nắng dãi, lũ lụt hầu như năm nào cũng có thì là đặc sản chỉ có riêng Huế mà thôi. Và nếu vậy, lý do để chọn cái nắng ấy, cái mưa ấy sẽ khó lý giải nếu không dựa vào sự chứng ngộ Kinh Dịch của các bậc trí giả tiền nhân.

Đặt kinh thành Huế vào cái thế luôn động của thời tiết là hy vọng cái động đó làm nên sự chuyển biến không ngừng (phát triển) của đất nước. Phần động hữu hình phải do con người tự lo, là phần thuộc về quốc kế dân sinh của mỗi triều đại. Phần động vô hình, thứ chỉ cảm được chứ không sờ được là do đất trời. Khí hậu thời tiết là tương giao trời - đất. Nhìn tượng đoán ra thần. Chuyển biến mạnh mẽ, chuyển hoá qua lại không ngừng giữa nóng với lạnh, giữa khô hạn với lụt lũ chính là cái tượng của phần động vô hình mà bậc thiên tử nào cũng muốn được trời đất ban cho. Cái động vô hình này càng lớn, sinh khí càng cao cái biến (phát triển) của dân tộc càng có cơ hội lớn.

Nói thời tiết Huế rất động, nhưng không phải kiểu động sớm nắng chiều mưa. Là cái động theo mùa, là cái động lớn để sau đó đem lại cái tĩnh lặng, cái điều hoà. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận xét về sông Hương: “Rừng đầu nguồn với những đường giao thuỷ lớn, lượng mưa nhiều và thảm thực vật sâu dày đã tạo ra một cơ chế điều tiết rất giỏi. Mức sông Hương không chênh lệch nhau nhiều qua những mùa mưa lũ và nắng hạn hết sức khắc nghiệt của thời tiết xứ Huế [...]. Số phận may mắn nhất của sông Hương chính là chỗ đó”. Lại nữa, trong Kinh Dịch có thuyết Tài thành phụ tướng, là một lý luận được người xưa rất coi trọng. Con người phải biết trọng luật trời, sống hoà hợp với tự nhiên. Phải biết nương tựa vào thiên nhiên mà dung thân, mà phát triển. Phải hiểu luật thiên nhiên lúc nào cũng bình đẳng, có vay có trả. Thiên nhiên khắc nghiệt chưa hẳn đã dở, chỉ thấy cái dở của tạo hoá để sửa sang (rồi từ đó mà tự cao tự phụ, cho mình hơn ông trời) thì nhẹ là chẳng hưởng được cái hay đi kèm, nặng thì hậu quả khôn lường. Lấy việc đắp đê làm ví dụ. Đắp đê thì chống được lụt, nhưng đê cũng ngăn luôn dòng sinh dưỡng cho đất đai mà lũ lụt đem lại. Vì thế sống chung với lũ lụt mới là hành xử thông minh nhất vì đấy là đạo người đã hoà với đạo trời, là Tài thành phụ tướng. Phải chăng, thâm sâu trong tâm linh, các tiền nhân thời Nguyễn đã cảm được cái đạo trời đất vi vô này mà chủ động đem chính cuộc sống của hoàng gia làm cái ví dụ, làm tấm gương về Tài thành phụ tướng, để cầu mong quốc thái dân an cho muôn triệu con dân đất Việt?

Tôi không thể chứng minh được những điều nghi vấn trên, song tự tâm cảm nhận và cứ mong rằng cái logic này đúng.
Lụt năm 1999 tôi không ở Huế để được chứng kiến thế nào là sự nhỏ nhoi của sức người trước thiên nhiên hùng vĩ và vô địch. Nhưng được biết chưa đầy ba ngày mà trời đổ một lượng nước cao hơn 2.000 mm xuống Huế thì ghê quá! Những trận Đại hồng thủy trong lịch sử, những thiên tai cục bộ và toàn cầu mà nhân loại đã, đang và còn sẽ chứng kiến nói lên điều gì? Đến bao giờ con người mới bớt u u mê mê để thấm nhuần một chân lý cực kỳ giản dị rằng, dù có giỏi giang đến mấy, giàu có đến mấy, làm đến ông gì gì đi chăng nữa, con người cũng chỉ là một sản phẩm nhỏ nhoi của tạo hoá mà thôi! Biết hài hoà, gắn kết tự nguyện với tạo hoá con người sẽ được hưởng trọn vẹn hạnh phúc lớn lao nhất - niềm an lạc nội tâm. Không biết điều đó, thảm hại hơn nữa là biết mà vẫn cứ làm vì không thoát được tính ích kỷ, vì danh, vì lợi, con người sẽ lãnh đủ: tạo hoá buộc phải huỷ bỏ các sản phẩm, kể cả sản phẩm Người, mà nó tạo ra. Vì, dù nó vốn rất đẹp, nhưng một khi đã thành phế phẩm, hết phương cứu chữa, thì không thể giữ được nữa.

Phải chăng trải qua bao biến cố đau thương, tay phải chặt tay trái, con giết cha, anh giết em, vua giết tướng, cả đàn con cháu rồng tiên từ một bọc chui ra đã bị cuốn vào cảnh nồi da xáo thịt, mà những người khởi nghiệp vương triều Nguyễn đã chứng ngộ được một chân lý là muốn dân giàu nước mạnh, bờ cõi vững bền thì dưới phải hợp lòng người, trên phải thuận theo đạo trời đất. Có Dân là có Nước. Có nước rồi, để nước vững bền phải tiếp tục có dân. Thuận theo luật đất trời để bồi dưỡng nguyên khí quốc gia cũng là một cách dưỡng dân. Vậy, vì Dân mà chủ động theo luật Trời phải là một sự thấm nhuần đạo lý vũ trụ sâu sắc lắm. Đạo lý đó nằm trong Kinh Dịch.

Chiều lang thang bên bờ Hương Giang, dõi mắt xa xa về phía thượng nguồn, tôi như thấy núi Kim Phụng đang uống nước dòng Hương để ngày đêm miệt mài kết tụ thêm linh khí cho cố đô Huế, góp phần bồi bổ thêm hồn thiên sông núi trên toàn cõi Việt Nam ta. Tôi chợt rùng mình se lạnh khi nghĩ đến một mai Tả Trạch thành ao thành hồ, liệu hàng năm uế khí nơi tôi đang đứng có còn được rửa trôi để hứng dòng tươi mát trường tồn từ nguồn linh sơn Kim Phụng nữa không?
 N.T.V

(nguồn: TCSH số 210 - 08 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN NỮ NGHI TRINHNói đến lối ăn Huế người ta nghĩ ngay đến cung cách ăn uống trong cung đình, vì Huế đã từng là thủ phủ của Đàng Trong từ thế kỷ XVII rồi trở thành kinh đô của cả nước từ thế kỷ XIX. Ngần nấy thế kỷ cũng đủ cho Huế trở thành một trung tâm chính trị và văn hóa, trong đó văn hóa ẩm thực giữ một vị trí quan trọng, mà những món ăn trong cung đình là sự chọn lựa tối ưu.

  • JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)

  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...