Kim Lân - nhà văn của những phận người bé mọn

10:56 09/10/2008
PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.

Đặt ông bên những tên tuổi kể trên vừa thấy có sự tương đồng và gắn bó; lại vừa thấy một tương phản hoặc khác biệt rõ rệt. Nam Cao - người viết tuyệt vời về nông thôn Việt Nam là nhà văn mà ông rất yêu quý, ngưỡng mộ; và số phận đã gắn ông với nhân vật lão Hạc trong một bộ phim về cái Làng Vũ Đại ngày ấy, để cho đến tận bây giờ ông vẫn được người đời gọi ông là lão Hạc. Lão Hạc là người hàng xóm của Nam Cao; còn ông - ông cũng có một truyện lấy chính tên Ông lão hàng xóm. Nguyên Hồng - tác giả bộ tiểu thuyết lớn, hơn 2000 trang là Cửa biển đã từng có chung một cảm xúc lớn và thống thiết với ông về nạn đói - 1945 khi cho ra đời Địa ngục Lò lửa, cùng thời với Vợ nhặt của ông; và về sau, thì một người viết Con chó xấu xí, một người kể chuyện Con hùm con bồ côi... Tô Hoài - người cùng tuổi với ông suốt một đời viết không ngưng nghỉ; còn ông thì chỉ thỉnh thoảng viết, nhưng cả hai đều để lại những trang đầu đời trong dáng dấp tự truyện, cùng với những thú vui phong tục - một bên là ven đô Kẻ Bưởi, một bên là Phù Lưu - Từ Sơn. Còn Nguyễn Huy Tưởng - người cùng quê Kinh Bắc với ông - ra đi ở tuổi 49, để lại cùng với sự nghiệp kịch và truyện sáng giá, là ngót 2000 trang nhật ký; lúc nào cũng khao khát viết một cái gì thật lớn; còn ông không mấy thúc bách, nôn nóng vì bất cứ ao ước gì; nhưng cả hai vẫn có tình bạn thân thiết và quý trọng lẫn nhau...

Những tên tuổi trên, đã cùng ông gắn với sự khởi đầu cho nghiệp viết vào thời kỳ cuối của văn học hiện thực trước 1945; và sau này có quan hệ gắn bó với nhau trong từng khu vực công việc hoặc phạm vi nghề nghiệp, vì một nền văn nghệ mới. Tất cả đều là chứng nhân, là đại diện cho cả một hành trình lớn của văn học Việt Nam hiện đại (thế kỷ XX), đi qua mốc lịch sử 1945; và ông là thuộc trong số rất ít người đi trọn cuộc hành trình đó sang thế kỷ XXI - ở tuổi ngót 90. Do vậy, nghĩ về ông là nghĩ về hành trình ấy; và sau cuộc ra đi của ông vào ngày 20 - 7 năm 2007 này, thế hệ tiền chiến chỉ còn lại dăm người từ lâu đã ngừng viết, trừ Tô Hoài vẫn còn tiếp tục đồng hành với các thế hệ sau.

Trong thân hình mảnh khảnh, có phần hom hem, và trong giọng nói nhỏ nhẹ, chậm rãi và có phần thều thào do bệnh hen ở tuổi ngoài 85, ông vẫn sẵn lòng tiếp chuyện chúng ta trong căn nhà nhỏ ở xóm Hạ Hồi, trước khi làm một cuộc chia tay vĩnh viễn. Cả một đời ngót tuổi 90, dường như lúc nào ông cũng nhỏ nhẹ, chậm rãi và khiêm nhường như thế, trong cách ăn nói, đi đứng, tiếp xúc, cũng y hệt như chính thế giới nhân vật của ông, những người trong thân phận bé mọn, và thường trú ngụ ở những nơi khuất nẻo. Nếu là vợ thì là vợ nhặt. Nếu là xóm thì là xóm ngụ cư. Nếu là con thì là con thừa, con thêm, con vợ lẽ hoặc con người cô đầu. Nếu là chú thì là chú dượng. Nếu là kép thì là người kép già. Họ đều có tên - ai trong đời chẳng có một cái tên để gọi! Nhưng là những cái tên không khẳng định một cái gì của riêng mình. Là Tràng hoặc Đục (con nhà thợ mộc). Là Nếnh, Náng, Thúng, Mủng. Là bà cụ Tứ hoặc lão Hai (con số). Là bố con người gác máy bay trên núi Cối Kê, hoặc ông Cả Luốn gốc me (phải nhờ đến núi Cối Kê và gốc me để nhớ và định vị). Còn nếu là vật, như chó thì là con chó xấu xí... Họ như muốn lẫn đi trong mọi góc khuất của đời, nhưng họ lại làm nên cái phần sống đa số, và cơ bản của một xã hội trên 95% số dân là nông dân, và dân nghèo. Họ phải chịu đựng mọi lầm than của cái đói và mọi cực nhọc của sự mưu sinh. Đây là chỗ Kim Lân gặp Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài... vốn cùng là những nhà văn của những thân phận bé mọn. Nhưng ông vẫn khác họ; vì như chính ông thường nói, là ông kém tài, ít học và ít đọc so với họ, nên tham vọng cũng ít hơn. Hiểu vì sao cả ông và cả nhân vật của ông thường không có tuyên ngôn, càng ít nói lý lẽ, và thật sự sống trong lặng lẽ, lầm lũi. Hơn thế, dường như họ còn là hóa thân của ông; và đã có lần ông nói đến sự hóa thân này vào nhân vật cu Tràng trong Vợ nhặt, hoặc vào nhân vật ông Hai, trong Làng. Kể cả mẹ cu Tràng là cụ Tứ cũng có dáng dấp chính mẹ ông là cụ Tam - người vợ ba, cô thợ cấy người Kiến An, về lấy lẽ bố ông. Vân vân... Và cái đói của nhà cu Tràng cũng là cái đói của chính gia đình ông; ông cũng cưới vợ vào lúc ấy, cố nhiên là vợ có cheo cưới, chứ không phải... vợ nhặt.

Nghĩ mình kém tài hơn nhiều bạn văn, nên ông chủ trương viết bằng cái sống thực của mình; chỉ viết những gì mình trải, mình thuộc. Ra khỏi quỹ đạo ấy là gượng, là giả; và ông cũng đã từng phải xấu hổ vì cái giả ấy. Và có lẽ vì sợ giả, nên ông viết ít, và cũng không thấy sốt ruột lắm vì sự chậm viết này.
Như vậy nghĩ về Kim Lân là nghĩ về một thế hệ nhà văn tiền chiến, với thế giới người bé mọn là đối tượng quan tâm chung. Nhưng ngoài sự sống đó, ông còn có một mảng màu khác, có thể nói là đặc sắc, trong những thú chơi thanh lịch của một vùng quê Kinh Bắc như đánh vật, chọi gà, thả chim, nuôi chó săn, làm đèn hàng Mã... Có được mảng truyện này trên Tiểu thuyết thứ BảyTrung Bắc chủ nhật chính là nhờ sự gợi ý của ông chủ thầu Vũ Bằng - người làm công cho Vũ Đình Long. Và ta nhớ cả Nam Cao và Tô Hoài cùng đều qua mắt xanh Vũ Bằng mà đến được với sở trường và tay nghề của mình. Mà nói đến tay nghề thì lại phải nhớ: tuy ít học, ít đọc nhưng Kim Lân lại có rất lắm tài vặt trong các nghề thủ công, như vẽ, sơn guốc, khắc tranh, làm đèn và cả diễn kịch...

Kể từ chùm truyện về các thú chơi như Đôi chim thành, Con mã mái, Chó săn, Thổi ống xùy đồng... qua Vợ nhặt, Kim Lân sẽ có tiếp một hành trình đến Làng, với nhân vật lão Hai rất ấn tượng trong bức tranh nhân dân kháng chiến chống Pháp, sau ngày Toàn quốc kháng chiến. Với Kim Lân, cũng như tất cả những nhà văn viết về thôn quê Việt , người nông dân ở đâu và bất cứ lúc nào cũng tha thiết gắn bó với làng. Nhưng rồi cũng lắm lúc họ buộc phải rời làng, rứt ra khỏi làng (xót xa lắm) để sống với thân phận của kẻ ngụ cư. Một lớp dân nghèo do thân phận ngụ cư (như trong Vợ nhặt, với cái tên đầu của nó là Xóm ngụ cư) nên phải chịu thêm nhiều sức ép của những tập tục và thành kiến. Nhưng chuyển vào đời sống cách mạng, rồi kháng chiến, họ đã thành người nông dân yêu nước tản cư. Và dẫu chỉ mới ở hành động tản cư, dẫu chỉ là sự chuyển đổi môi trường sinh hoạt, ngòi bút Kim Lân vẫn rất tinh tế mà gạn chắt và khẳng định những nét mới trong phần sống bên trong và gương mặt tinh thần của họ. Đưa tình yêu làng lên tình yêu nước, gắn tình yêu làng với tình yêu cách mạng, nét sống đó mang vẻ đẹp tinh thần mới ở người nông dân đã đưa ông Hai - nhân vật chính và quen thuộc của Kim Lân trong truyện ngắn Làng lên vị trí một điển hình người nông dân trong buổi giao thừa mới - cũ.

Sau Làng như một thành tựu thật đặc sắc của văn xuôi chống Pháp, Kim Lân có tiếp Nên vợ nên chồngÔng lão hàng xóm - viết về Cải cách ruộng đất và Sửa sai, một đề tài “hiểm”, nên có gây ra cho ông một ít sóng gió. Sau vụ đấu tranh tư tưởng hồi 1956-1958, bước vào cao trào Hợp tác hóa, ông viết tiếp Ông Cả Luốn gốc me, vẫn với những phát hiện về cốt cách của người nông dân trong đấu tranh cũ - mới. Rồi đến Con chó xấu xí, cùng với mấy con vật khác như con nai đen, con ngan, con hùm con bồ côi rủ nhau cùng xuất hiện vào đầu 60 làm nên một khí hậu lạ, gây nên ít nhiều e ngại cho những người làm công tác tư tưởng một thời.
Phải viết những gì mình thuộc; không tuyên ngôn, không phô trương ồn ào; càng không sa vào những cuộc đánh đấu, mà chỉ muốn là một người viết khiêm nhường, một phận người tử tế, phải chăng đó là một trong các nguyên cớ khiến Kim Lân kiên trì chủ trương viết ít; và đó là điều có gây thiệt cho ông, và cũng là thiệt cho nền văn học nửa sau thế kỷ XX của chúng ta.

Thế nhưng con người luôn luôn nhún nhường, và không ưa chen lấn, lại vẫn thật ấn tượng trong những trang ít ỏi đã được viết, bởi cách sống và cách viết của ông. Làm một người tử tế - như ông mong muốn, quả đâu là dễ trong cuộc đời; và khi chọn nó làm mục tiêu cho cách sống và cách viết, ông đã cho ta một khẳng định về sự hiện diện cao quý “đói cho sạch, rách cho thơm” của mình. Với tôi, tôi không ngần ngại khi đặt ông kề sau Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng - những tên tuổi lớn trong văn học thời 1941-1945. Cũng những tên tuổi đó, sau một kết thúc vinh quang, lại tiếp tục là người khởi đầu và xây nền móng cho văn học sau 1945 bằng chính tấm gương sống và viết của họ.
Kim Lân, ông đi rồi, nhưng gương mặt ông, hình bóng ông dường như vẫn ở đâu đó bên ta, qua thế giới nhân vật gồm chính những bà con, anh em, cô bác chúng ta, số đông có nguồn cội thôn quê, và hẳn chắc còn lâu mới hết phận nghèo vất vả.
Thái Hà 23-7-2007
P.L

(nguồn: TCSH số 223 - 09 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.