NGUYỄN KHẮC THẠCH
Đâu phải cái gì cũng qua rồi là xong, là hết. Ra đi và sống mãi là chương trình truyền hình trực tiếp mà VTV đã thực hiện khi vị đại tướng của nhân dân đã ngủ yên trong lòng đất mẹ.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong căn nhà số 30 Hoàng Diệu - Ảnh: Duy Anh
Người ta lại tiếp tục trao nhau những câu chuyện, những kỷ niệm riêng với đại tướng mà nó chỉ được lưu giữ trong từng cá nhân, từng đương sự. Đảng bộ và chính quyền Thủ đô Hà Nội (và có lẽ các thành phố lớn khác trong cả nước nữa) cũng đã đưa phương án chọn một con đường tương xứng với vị trí, tầm cỡ mang tên Đại tướng. Không chỉ có vậy, những chuyện khuất tất đâu đó rồi cũng được lịch sử và nhân dân phán xét. Ai đó đã nói chí lí Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người duy nhất đứng ngoài mọi sai lầm của lịch sử.
44 năm trước, giữa những ngày thu man mác buồn Hà Nội đã rưng rưng Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa - (Tố Hữu) tiễn đưa một vị Anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới về cõi vĩnh hằng. Đó là Bác Hồ vô vàn kính yêu của chúng ta. Thu nay cũng vậy. Hà Nội lại cùng nhân dân cả nước và bạn bè bốn biển năm châu buồn thương vĩnh biệt vị Đại tướng của nhân dân, một trí thức minh triết, một nhà cầm quân lỗi lạc vào hàng đệ nhất của dân tộc thị hiện giữa thời đại Hồ Chí Minh. Ở thời này, nếu chỉ được chọn một người có tư tưởng với lối sống, tài năng với đạo đức xứng đáng là học trò “chân truyền” của Bác mà tên tuổi gắn với tên đất nước thì lịch sử cũng đã chọn rồi. Trên thế giới người ta đã hô vang khẩu hiệu ấy từ nửa thế kỷ trước: Việt Nam - Hồ Chí Minh - Võ Nguyên Giáp!... Điều đó như một định đề chân lí không cần tranh luận khi nói về Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Chính các nhà sử học trên hành tinh này cũng minh định vậy. Ông không chỉ trở thành một huyền thoại mà có lẽ còn trở thành một thiên tài lớn nhất thế kỉ XX và một trong những thiên tài lớn nhất của các thời đại.- (Cecil Currey, nhà sử học Mỹ).
Có lẽ không cần nói gì thêm vì không phải không còn gì để nói mà chính sinh thời Đại tướng, ông cũng không muốn người ta nói nhiều về mình. Ông thuộc hàng Thánh nhân chi đạo, vi nhi bất tranh (bậc thánh nhân chỉ làm, không muốn tranh gì với ai). Đấy là phẩm chất hay thuộc tính trân quý nhất ở những bậc trí giả thức thời biết “hành” và biết “nhẫn” như ông. Thanh gươm có thể làm nên lịch sử nhưng chính nó lại khó tránh khỏi bi kịch của lịch sử. Người ta ví ông với Nguyễn Trãi thời Lê sơ. Dù trong hoàn cảnh nào, tấm lòng vì dân, vì nước của các ông cũng vành vạnh như trăng sao (Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo - Lê Thánh Tông). Người dân cũng cảm ứng được điều đó qua băng tần giao cảm năng lượng sóng. Ngày nay, các nhà khoa học đã chứng minh được sự giao cảm đó qua những thí nghiệm chính xác bởi thiết bị máy móc tân kì. Với cây cối hay với nước mà trước nay nhầm tưởng là những vật vô tri giác đều nằm trong cấu trúc của cơ chế vạn vật đồng nhất thể. Đã có những thiền sư ẩn tu nơi rừng sâu, lòng bi mẫn bao dung vô lượng trong họ phát sóng tương tác gây cảm hóa, quy phục cả hổ báo khỉ chồn. Chúng không những không hại mà đôi khi còn hái lượm thức ăn rừng cho sư. Sự sống là năng lượng. Năng lượng tồn tại dưới dạng vi tế trong con người cũng như loài vật là từ nguyên tử đến nhỏ hơn (hạt cơ bản). Từ trường và điện trường giữa chúng “giao cảm” với nhau và “camera” tàng thức thu lại. Từ “kho” vô thức đó mà ý thức nhận biết dần qua “cổng thông tin” trực giác. Qua đó để nói rằng, hiệu ứng giao cảm là có cơ sở khoa học. Ngươi nhìn Chúa bằng con mắt nào thì Chúa sẽ nhìn lại ngươi bằng con mắt đó. Ai đối với dân thế nào thì dân cũng đều tự biết, không cần vận động tuyên truyền. Điều này lí giải được tại sao đã bốn năm ngày rồi mà cảnh tượng người dân tứ xứ đổ về xếp hàng dài hàng cây số để được viếng vị Đại tướng của mình vẫn còn đông. Có những người chỉ đi được trong ngày không kịp vào trước linh sàng đành đứng ngoài cổng ôm mặt vái lạy rồi thút thít ra về! Lại có người tuổi cao sức yếu xếp hàng lâu bị ngất phải đưa viện cấp cứu. Vừa hồi tỉnh, liền vùng dậy để đi vào hàng ngũ. Ban Tổ chức cảm động đã đặc cách cho người ấy đi cửa phụ vào viếng sớm. Những việc thiện nguyện gây hiệu ứng khắp phố phường Hà Nội. Từ tiếp tế thức ăn nước uống đến thuốc thang, đến ô dù che mưa nắng, đến lời ca tiếng đàn đưa tiễn…Nhiều người đã khóc. Có lẽ Hà Nội thu này ít mưa nên nước mắt nhiều hơn! Sau 44 năm tang Bác, nay Hà Nội lại chứng kiến một Quốc tang mang tầm quốc tế như vậy. Đâu phải chính trị gia, nguyên thủ quốc gia hay ông to bà lớn nào cũng được dân tiếc thương khi về chín suối? Thời nào ở đâu cũng vậy. Bên bờ sông Kiến Giang Lệ Thủy quê hương Đại tướng, ông Ngô Đình Diệm cũng làm Tổng thống phía bờ kia và từng lê máy chém đi đàn áp dân, nên dân oán ghét. Ông bị chết thật bi thảm vốn là quả báo hiện tiền. Trong khi đó, vị Đại tướng của nhân dân nay lại trở về với đất lành, đất thiêng, thanh tĩnh tại Vũng Chùa - Đảo Yến để cái tôi hoàn lại đất trời/ Trả tôi mặt mũi muôn đời chưa sinh. Đó là câu thơ tạc trên Đại hồng chung do bà Đặng Bích Hà, phu nhân Đại tướng cùng các phật tử thành tâm chú tạo năm 2010. Có lẽ vị Đại tướng của chúng ta, muốn tìm lại bản lai diện mục của mình như các thiền nhân sau một cuộc hồng trần phiêu linh trận mạc, mà nơi đó ông đã để lại tiếng thơm muôn đời cho hậu thế.
*
Những đợt triều dâng cao ào ạt rồi lại trở về với mặt nước lăn tăn. Về mặt rung động vật lí, lòng người đâu khác gì sóng nước. Từ cái chung bao la trùng điệp ấy, tôi trở về với tư cách giọt nước lăn tăn của riêng mình. Sau Quốc tang, tôi có thể lên tàu về quê luôn nhưng tôi đã rơi vào chuyến tàu bị kẹt lụt trên đường. Sau khi nằm chờ từ 6 giờ sáng đến 18 giờ chiều thì tàu SE19 của chúng tôi được lệnh dồn khách qua SE3 để lấp hết chỗ trống bên đó tránh lãng phí cho Nhà nước. Tất cả khách đi vé nằm qua tàu mới không còn chỗ ngả lưng đều phải ráng ngồi. Tôi cũng trong số đó. Chúng tôi lại tiếp tục ngồi chờ từ 18 giờ đêm 16 đến gần 6 giờ sáng 17 tàu mới chuyển bánh. Vào ga Đồng Hới, tàu dừng đón khách mới. Tôi và một số người khác mất luôn chỗ ngồi. Điều tôi nêu ra ở đây không phải nói sự tắc trách của nhà tàu, cũng không phải nói sự thiệt thòi của khách. Không một ai kêu ca phàn nàn chứ chưa đến mức nói thắc mắc kiện cáo. Vì sao vậy? Giản đơn thôi nhưng có lẽ chỉ những người “trong cuộc” mới hiểu được điều này. Vùng lụt mà tàu đi qua trông thật tang thương. Lại là quê hương Quảng Bình. Từ ga Đồng Lê, nơi con tàu đã nằm trọn một ngày đêm, nhìn thẳng ra biển là Vũng Chùa - Đảo Yến, vị Đại tướng của nhân dân cũng vừa nằm đấy. Sự thông cảm sẻ chia, sự đoàn kết bao dung trong con người Việt Nam là tiềm năng quý báu và kì diệu. Chỉ những khi gian khó hoạn nạn hay những lúc mất mát đau thương lớn thì điều đó mới được bộc lộ chân thành. Cũng như câu tục ngữ Nhà nghèo mới biết con hiếu, nước loạn mới biết tôi trung. Có thể nói đây là chuyến tàu đi trong sự “cộng hưởng lòng dân” đối với vị Đại tướng của họ.
Rời ga, tôi lại gặp những người thân thiết. Dù mở đầu bằng câu chuyện gì rồi cũng quay lại với vấn đề thời sự đang là. Có người còn tỏ ra hoan hỉ khi nói thấy con trai tôi (Nguyễn Khắc Thành) xuất hiện đôi lần trên ti vi trong các chương trình âm nhạc tưởng niệm Đại tướng. Quả vậy, sau chuyến đi công diễn dài ngày ở Nhật về, Dàn nhạc giao hưởng Việt Nam liền bắt tay vào tập một số tác phẩm nhằm ứng phó trong dịp Quốc tang. Ngoài ra, Thành còn tham gia tứ tấu đàn dây trong chương trình ra đi và sống mãi truyền hình trực tiếp đêm 13 tháng 10. Thật xúc động khi bản Serenade của Schubert mà Đại tướng hằng yêu thích được tấu lên với giai điệu vừa réo rắt êm đềm, vừa não nùng thanh thoát. Tôi nghe trong phức cảm chạnh lòng xen hãnh diện. Tôi nhớ mùa thu năm 1969. Hồi đó tôi còn học ở trường Nghiệp vụ Kế hoạch Trung ương. Hình như cả trường chỉ mình tôi biết chơi đàn violin. Ngày Bác Hồ ra đi, tôi đã ôm đàn đánh bài Hồn tử sĩ tiễn biệt Người trong các buổi tang lễ do trường, lớp tổ chức. Về trình độ thì tôi quá nhỏ nhoi so với Thành bây giờ nhưng về tính chất thì chúng tôi là một. Tôi còn có đứa cháu đích tôn cũng theo bố nó học đàn. Không biết mai sau, đến lượt cháu, nó có còn được vinh dự như cha ông. Lại được cầm đàn trong những sự kiện trọng đại của đất nước. Còn ai không? Như Bác Hồ vĩ đại của dân tộc? Như Đại tướng anh hùng của nhân dân?
N.K.T
(SH297/11-13)
Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...
Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.
1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.
Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.
Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).
*Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.
Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...
Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.
I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.
Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.
Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.
I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.
Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.
Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.
Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...
Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.
Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...
Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.