Khúc ca đồng đội(1) - Khúc tri ân những người đi giữ nước từ xa

16:46 18/09/2009
HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

Tập Khúc ca đồng đội - Ảnh: vietimes.com.vn

Tôi đã được đọc khá nhiều thơ của các nhà thơ quân đội, nhưng Phạm Sĩ Sáu viết cho đồng đội và cho chính mình theo tôi là một cung bậc khác, một giọng điệu khác hẳn, và cách lập ngôn cũng hoàn toàn khác:
                        Quê hương thì nhiều
                        Nhưng địa chỉ là một
                        Hỡi những người con gái mang trong tim mình địa chỉ hòm thư

                                    (Hòm thư chúng tôi thành phố Hồ Chí Minh)
                        Đất nước mình: hoà bình và súng nổ
                        Ở mặt trận nào cũng cần có lòng tin
                                    (Gởi bạn bè làm xong nghĩa vụ)

Đến “Hành khúc Tráng sĩ” - một cách “nhại” Tống Biệt Hành của Thâm Tâm - hình thức không mới, hình như trước anh cũng đã có người làm, nhưng:
                        Sông Dịch nào rộng bằng sông Mê Kông
                        Sóng Mê Kông sao bằng sóng ở trong lòng
                        (…)
                        Tráng sĩ chừ học tiếng Khơ me
                        Lắp bắp dăm câu: ô-rơ-cun, Thamêch
                        (…)
                        Tráng sĩ lội sông, tráng sĩ làm cầu
                        Tráng sĩ gặt lúa đồng bằng, mót củi rừng sâu
                        Tráng sĩ đi là đi tình nguyện…

Thì chỉ có Phạm Sĩ Sáu đến tháng 3.1981 mới viết được những câu thơ như thế, và cũng chính Phạm Sĩ Sáu đến tháng 12.1984 mới viết câu thơ:
                        Đi giữ nước mà mang trong lòng - nhớ nước
                                    (Trước đền Angkor Wat)

Ngày xưa ông cha ta những lần đi làm sứ đã từng viết những bài thơ nhớ nước nhớ nhà đến nao lòng, hoặc như Tế Hanh:
                        Anh xa nước nên yêu thêm nước
                                    (Bài thơ tình ở Hàng Châu - 1956)
Cho thấy nỗi nhớ nước của những chàng trai Việt đi giữ nước ở chiến trường xa càng nhức nhối, da diết xiết bao!

Thói thường người ra trận chiến đấu, tối đâu là nhà, ngả đâu là giường! Cha mẹ của ai cũng thành cha mẹ của mình, anh chị em ruột thịt của ai cũng thành anh chị em ruột thịt của mình, quê hương của ai cũng là quê hương của mình… Nhưng những chàng trai nước Việt những năm 1979-1989 đi chiến đấu giữ nước mà ở trên quê hương của ai chứ không phải quê hương mình, cha mẹ anh chị em ruột thịt của ai chứ không phải của mình và kỷ luật thép không cho phép anh để mắt vương vấn tình trai với những cô gái bản xứ dẫu các cô nàng có vì niềm khâm phục và lòng biết ơn cứu tử sâu sắc mà chân thành dâng tặng trái tim cho anh… Và trong điều kiện đó, kỷ luật quân đội buộc anh phải đối xử với các bậc cao niên như đối với cha mẹ của mình, với những thanh niên phụ nữ thiếu nhi ở đấy như đối với những người anh chị em ruột thịt của mình, phải hết lòng chăm sóc, giúp đỡ, bảo vệ họ, không cho bọn tàn quân polpôt lẻn vào gây đau thương mất mát cho họ một lần nữa, nếu có mất mát thì chính các anh phải hứng chịu đầu tiên:

                        Ở trong dân cũng nhiều lần máu đổ
                        Vã mồ hôi và thao thức những đêm dài
                        (…)
                        Nhà thiếu đàn ông, đồng xanh cỏ mọc
                        Chặt cây, đánh tranh, dựng lớp, đắp đường

Tiêu chuẩn gạo mỗi ngày bớt một nửa - nhường cơm vào rừng sâu tìm giúp dân đàn trâu bò quên ngõ
                        (…)
                        Học đi những đường cày, học đánh xe trâu
                        Gặp nhà sư phải biết cách cúi chào
                        Lên nhà sàn không xoa đầu trẻ nít
                        Cuộc sống mỗi ngày như sách lần trang
                        Có ngày không kịp nói một câu tiếng Việt…

                                    (Kỷ niệm về dân)

Phạm Sĩ Sáu đã nói hộ cho bao đồng đội cùng một thời với anh đi đánh đuổi bọn giặc đến quấy nhiễu ở biên giới Tây Nam của Tổ quốc, thừa thắng các anh truy quét chúng đến tận sào huyệt - nơi bọn diệt chủng Polpôt đang tận diệt đồng chủng của chính mình. Bao chàng trai nước Việt đã ngã xuống trên trận tuyến đó, họ hầu hết còn rất trẻ, nhiều người trong họ chưa từng được biết làn môi của một người con gái:
                        Dẫu có đứa chưa từng ôm một người con gái
                        Chưa từng yêu nên nói chuyện tình yêu: nói đại
                        (…)

Bị phát hiện bèn mở miệng cười khà:
                        - Tao không biết thì rồi tao sẽ biết.
                        Và… mày hy sinh không còn thời gian để biết.

                                    (Điểm danh đồng đội)

Chúng ta từng gọi đội quân tình nguyện Việt Nam một thời trên nước bạn là những người lính tiên phong đi làm lại cuộc cách mạng bị phản bội, là đi làm nhiệm vụ quốc tế cao cả, là đi giúp một dân tộc thoát khỏi bàn tay của bọn đao phủ diệt chủng, là đi bảo vệ nước ở nơi xa nước…. Tất cả những cách gọi cách nói ấy, cách nào cũng đúng cả, và nếu gộp tất cả những cách gọi cách nói ấy lại thì càng đúng hơn, và chỉ có thể làm như thế mới thấy hết được vinh dự và trách nhiệm nặng nề đặt lên vai những chàng trai Việt thuở ấy, mới cảm nhận được nỗi niềm đau đáu nhớ nước khôn nguôi, bởi chung quanh họ lúc nầy bầu trời mặt đất ngôn ngữ tập quán đều xa lạ:

                        Giữ nước từ xa, trời đất lạ
                                     (Ở đỉnh 400)
                        Đất trời Cămpuchia hai mùa đều nghịch
                        Khô đến cháy rừng và mưa đến thối cây
                        Từ Nimít chúng tôi vào PhnômMêlai
                        Nơi rừng độc voi quay đầu trở lại
                        Rừng mênh mông mà mọi con đường đều giăng đầy mìn bẫy

                        Xoi mở đường - lính trinh sát bộ binh
                        Rừng đón chúng tôi bằng cơn sốt triền miên
                        Sốt rét quật trăm người không chừa một
                        Đi lấy nước, ngồi đáy giếng sâu hứng chờ từng giọt
                        Một giọt rơi ra đều gợi được một nét cười
                        (…)
                        Hạt nước mang lên với đồng đội chốt điểm cao
                        Đều thấm máu bao bạn bè vận tải

Hy sinh, gian khổ, tận cùng gian khổ vẫn giữ được nụ cười trên môi, vẫn hăng hái tiến lên các cứ điểm mới:

                        Đồng đội tôi đã đi cùng cơn khát
                                    (Trước đền Angkor Wat)
                        Giữa cái nắng như thiêu thèm một chùm me đất
                        Me hái được rồi mà bạn có còn đâu

                                    (Chia tay đồng đội)
                        Những Dũng những Hoàng những Trí những Sinh…
                        Chắc các bạn chưa yên lòng nhắm mắt
                        Biên giới quê hương vẫn thập thò bóng giặc
                        Thắp trong lòng chúng tôi ngọn lửa những đồng đội đi xa
                                    (Chia tay đồng đội)

Thơ Phạm Sĩ Sáu thống thiết gọi tên những đồng đội đã ngã xuống và những đồng đội còn lại đi tiếp chặng đường, vừa mang theo trong tim ngọn lửa nhiệt tình hừng hực của người đã khuất.
                        Chưa có phù điêu tạc dáng những chàng trai
                        Đi giữ nước mà mang trong lòng - nhớ nước
                        Bao thế hệ hành quân ra phía trước
                        Có thế hệ nào giữ nước từ xa không?
                        Câu hỏi làm tôi thổn thức nỗi lòng.
                                    (Trước đền Angkor Wat)

Trong nỗi niềm đó cái thường trực trong tim những người lính ra trận còn có bóng dáng những người thân yêu nhất: cha mẹ vợ con và người yêu – nên nỗi nhớ nước nhớ nhà càng da diết hơn:
                        Ở núi nhớ sông
                        Ở rừng nhớ biển
                        Ở nơi đâu cũng thấy nhớ nhà
                        Thằng Dần nhớ con đôi mắt trũng sâu
                        Thằng Huy nhớ vợ đêm ôm chầm đồng đội
                                    (Chia tay đồng đội)

Nhớ nhung đầy ắp vậy nhưng khi xung trận tâm thế anh bộ đội Việt Nam nhự tựa lông hồng:
                        Nói với nhau có câu chữ nào kiêng
                        Khi xuất kích nhắc nhau làm di chúc
                        Có bà chị, cô em nào nhớ khai cho nghiêm túc
                        Để rủi mà… còn chăm sóc đến nơi
                        Ôi! bọn chúng ta những thằng không cần văn tự cũng bán trời
                        Nói là bán chứ muốn mua tất cả
                        Sẵn sàng đem sinh mạng ra trả giá
                        Để tổ quốc thân yêu mãi mãi hoà bình
                                    (Chia tay đồng đội)

Mục đích của người ra trận rõ ràng đến mức không thể nào rõ hơn. Và điều họ tếu táo với nhau đã trở thành sự thật, nhưng họ không chỉ để lại những người chị, người em gái mà còn để lại người yêu.
                        Sao bạn không về nữa, Sơn ơi?!
                        (…)
                        Khi nhận tin bạn hy sinh lòng tôi như có lửa
                        Sẽ nói như thế nào cho Loan hiểu hả Sơn?
                                    (Một bài thơ tặng bạn, Sơn ơi)

Thật không mới mẻ gì khi nhắc đến nỗi đau của những goá phụ ở một đất nước có bao nhiêu năm dựng nước thì có bấy nhiêu cuộc chiến tranh, nhưng ở cái mốc lịch sử 30.04.1975 nhiều người đã thở phào mà nghĩ rằng rồi đây sẽ không còn cảnh sinh ly tử biệt vì chiến tranh nữa (!). Nhưng chỉ vài năm sau đó những cô gái Việt Nam phải nén lòng hát bài ca “Em vẫn đợi: (theo ý thơ của K.Simônôp) và năm 1986 Phạm Sĩ Sáu viết:

                        Ai đã một lần làm vợ người đi giữ nước
                        Mới hiểu cơn đau ngầm goá phụ trẻ đơn côi
                        Những Loan, Vân, Điệp, Mỵ, Hạnh, Khôi…
                        Xót xa ấy làm sao chúng tôi chia sẻ được
                        Chỉ báo tin thôi con nước cũng tràn bờ.

Rồi Phạm Sĩ Sáu nhức nhối thốt kêu:
                        Thành phố mình dư nhiều bài hát bâng quơ
                        Mà thiếu một khúc ca vinh danh người quả phụ
                                    (Trường ca ra đi từ thành phố)

Chẳng cần bình luận gì thêm. Cảm ơn người thơ chiến sĩ Phạm Sĩ Sáu, anh đã nói hộ bao điều cần nói cho những đồng đội đã ngã xuống, cho những người trở về không lành lặn, và những người lành lặn bên ngoài nhưng tâm hồn đầy thương tích - như những vết thương không bao giờ lành trong trái tim của những người quả phụ; còn với riêng tôi Phạm Sĩ Sáu là một đồng đội đặc biệt. Trước hết là vì anh với tôi cùng một số văn nghệ sĩ khác đã viết về những chiến sĩ tình nguyện Việt Nam trên nước bạn, viết về Cămpuchia hồi sinh sau họa diệt chủng của Polpôt, và viết về tội ác của tập đoàn Polpôt. Có thể nói chúng tôi cùng đi ra mặt trận phía Tây Nam một lúc, nhưng lúc bấy giờ với tư cách người chiến sĩ cầm súng trực tiếp chiến đấu, Phạm Sĩ Sáu phải đi lên phía trước, phải đóng quân và chuyển quân qua nhiều cứ điểm, còn tôi chủ yếu bám sát Siêmriệp Ôtđômiênchay và những địa phương hai bên trục quốc lộ 6 và quốc lộ 5. Đó là những nơi mà Phạm Sĩ Sáu đã từng qua, những ngày chúng tôi không gặp nhau. Tôi không ở trong quân ngũ, nhưng ngày đó cũng mấy lần suýt mất mạng. Nếu điều không may ấy xảy ra thì giờ đây tôi không được viết những dòng nầy về Phạm Sĩ Sáu, cả Phạm Sĩ Sáu nếu không may mắn được sống sót thì giờ đây không biết ai sẽ viết “Khúc ca đồng đội”? Ai sẽ đọc với ai? Và ai khóc cùng ai? Cũng nên mở ngoặc một chút rằng từ sau ngày 26.9.1989 khi người chiến sĩ tình nguyện Việt Nam cuối cùng rời khỏi Cămpuchia để trở về nước của mình thì Phạm Sĩ Sáu đã ba lần trở lại Cămpuchia với tư cách hướng dẫn viên du lịch, lần gần đây tháng 2.2009 anh đến dự hội nghị nhà văn ba nước Đông Dương và nhận giải thưởng văn học Sông MêKông. Phát biểu sau lúc nhận giải Phạm Sĩ Sáu đã khóc vì nhớ thương đồng đội của mình. Giáo sư triết học Khieu Kosal ngồi cạnh tôi trong hội trường cũng bật khóc. Khieu Kosal được thoát chết nhờ bộ đội Việt Nam kịp đến giải phóng, còn mẹ và em trai ông đã không đợi được đến thời điểm đó. Lúc nầy thì tôi có thể lý giải được vì sao tôi không cầm được nước mắt khi nhìn thấy Phạm Sĩ Sáu đọc khúc ca đồng đội bên bờ Sông MêKông. Ngày ấy chúng tôi nuốt nước mắt vào trong khi vuốt mắt cho đồng đội để giờ đây cùng vỡ oà trong niềm hạnh phúc họp mặt mà thiếu mất những đồng đội thân yêu!

Mỗi nhà văn có một quê hương để sống và viết, một mảnh đất tình người để khai thác suốt đời văn. Với Phạm Sĩ Sáu mảnh đất tình người ấy là biên giới Tây Nam, là Cămpuchia những ngày còn bóng giặc, là tình đồng đội thắm thiết như màu cờ Tổ quốc, như màu hoa khiến anh và đồng đội sững sờ khi chợt bắt gặp trước lúc vào trận:
                       
                        Trên đường ra cứ Âm-pin
                        Cơn khát chực chờ gõ cửa
                        Giữa nắng bốn bề trút lửa
                        Một chùm hoa đỏ lung linh
                       
                        Đồng đội tôi mải mê nhìn
                        Màu đỏ, đỏ như thôi thúc
                        (…)
                        Có một phút giây bình yên
                        Trước giờ bước vào trận đánh
                        Mỗi người cảm thấy bên cạnh
                        Hoa đỏ nhìn mình trang nghiêm.

H.K.L
(246/08-09)


--------------------
(1) Thơ Phạm Sĩ Sáu - Nhà xuất bản Trẻ 2008.


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THỊ NGỌC LAN (Đọc tập thơ Ngược xuôi thế sự, Nxb Văn học, 2011)

  • THÁI KIM LAN Tưởng niệm Cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu Vừa qua tôi lục giấy tờ cũ, tình cờ thấy một trang giấy có thủ bút của Thầy Thích Thiện Châu (cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu), một bài thơ. Cảm động quá. Bài thơ này Thầy viết sau khi khoá Thiền mùa hè năm 1990 chấm dứt và là lần cuối cùng Thầy sang giảng khoá Thiền tại Muenchen.

  • THI THOẠI        Nhân 90 năm ngày mất Phan Kế Bính (1921– 2011) Phan Kế Bính hiệu là Bưu Văn, bút danh Liên Hồ Tử, người làng Thụy Khuê (làng Bưởi), huyện Hoàng Long, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội, thọ 46 tuổi (1875 - 1921).

  • MIÊN DI Không tìm thấy, và cũng đừng nên tìm ở tập thơ này một điều gì đã từng được nhiều người đồng vọng trước đây. Nó là những mảnh tiểu tự sự, những cái nhìn cô lẻ, biệt dị từ đáy thân phận và đôi khi tàn nhẫn.

  • HOÀNG DIỆP LẠC (Đọc tập “Thơ tự chọn” của Nguyên Quân, Nhà xuất bản Văn học, 8-2011)

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG“Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đương có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học”…

  • NGUYỄN TRỌNG ĐỨC (Cảm nhận về tập thơ "Những kỷ niệm tưởng tượng")SHO - Lâu nay, người ta biết đến Trương Đăng Dung với tư cách là một nhà nghiên cứu lí luận văn học. Nhưng gần đây, sự xuất hiện của tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng làm xôn xao văn đàn Việt Nam đã khiến đông đảo bạn đọc không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra rằng: bên cạnh một Trương Đăng Dung lí luận còn có một Trương Đăng Dung thơ.

  • ĐÀO ĐỨC TUẤN Lang thang giữa hè Huế nồng nã. Bỗng nhận tin của Minh Tự: thêm một cuốn sách của Nguyễn Xuân Hoàng vừa được bạn bè góp in. Đầy đặn  360 trang sách với chân dung “người buồn trước tuổi” đằm đặm trên bìa đen trắng.

  • Vào lúc 14 giờ 25 phút ngày 13 tháng 7 năm 2011 (nhằm ngày 13 tháng 6 năm Tân Mão), nhà thơ Văn Hữu Tứ, hội viên Hội Nhà văn TT. Huế đã qua đời sau một thời gian lâm trọng bệnh. Từ đây, trong mái nhà anh gần hồ Tịnh Tâm, trên các con đường của Thành phố Huế cũng như những nơi anh thường lui tới, tác giả của các tập thơ “Bên dòng thời gian”, “Tôi yêu cuộc đời đến chết” vĩnh viễn vắng mặt.

  • LÊ HUỲNH LÂM (Đọc tập thơ “Năm mặt đặt tên”, Nxb Thuận Hóa, tháng 5-2011)

  • KHÁNH PHƯƠNG Nguyễn Đặng Mừng đến với nghề viết một cách tự nhiên, mà cũng thầm lặng như cách người ta theo đuổi một lý tưởng. Ông vốn là học trò lớp ban C (ban văn chương) những khóa gần cuối cùng của trường Trung học Nguyễn Hoàng, trường công lập duy nhất và cũng danh tiếng nhất tỉnh Quảng Trị trước 1975.

  • …Thuộc dòng dõi Do Thái Đông Âu, Frederick Feirstein sinh ngày 2 tháng Giêng năm 1940 tại New York City, thân phụ và thân mẫu ông có tên là Arnold và Nettie Feirstein…

  • L.T.S: Nhà thơ Xuân Hoàng sinh năm 1925 tại Đồng Hới, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Nguyên là quyền Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, thuở nhỏ ông học ở Huế rồi dạy học ở Đồng Hới một thời gian trước khi thoát ly tham gia cách mạng.

  • Anh không thấy thời gian trôi thời gian ở trong máu, không lời ẩn mình trong khóe mắt làn môi trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời về kiếp người ngắn ngủi.(T.Đ.D)

  • HOÀNG THỤY ANH Phan Ngọc đã từng nói: Thơ vốn dĩ có cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải xúc cảm và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này.

  • TRẦN THIỆN KHANH (Nhân đọc Phim đôi - tình tự chậm, Nxb. Thanh niên 2010)

  • LGT: Tuệ Nguyên, một nhà thơ trẻ dám dấn thân để lục tìm chất men sáng tạo ở những vùng đất mới với khát vọng cứu rỗi sự nhàm chán trong thi ca. Trong chuyến xuyên Việt, anh đã ghé thăm tạp chí Sông Hương. Phóng viên Lê Minh Phong đã có cuộc trò chuyện với nhà thơ trẻ này.

  • KHÁNH PHƯƠNG Lê Vĩnh Tài tự chẩn căn bệnh của thơ tình Việt Nam là “sến”, nghĩa là đa sầu đa cảm và khuôn sáo, bị bó buộc trong những lối biểu hiện nhất định. Rất nhanh chóng, anh đưa được lối cảm thức đương đại vào thơ tình, cái ngẫu nhiên, vu vơ, ít dằn vặt và không lộ ra chủ ý, dòng cảm xúc ẩn kín sau những sự vật tình cờ và cả những suy lý.

  • HỒ THIÊN LONGBạn đọc TCSH thường thấy xuất hiện trên tạp chí, và một số báo văn nghệ khác một số tên tuổi như về văn xuôi có: Lê Công Doanh, Phùng Tấn Đông, Châu Toàn Hiền, Nguyễn Minh Vũ, Trần Thị Huyền Trang, Phạm Phú Phong, Trần Thùy Mai…