Không bảo thủ: “Quen mắt thì răng trắng lại đẹp hơn đen”

10:48 26/09/2011
THI THOẠI        Nhân 90 năm ngày mất Phan Kế Bính (1921– 2011) Phan Kế Bính hiệu là Bưu Văn, bút danh Liên Hồ Tử, người làng Thụy Khuê (làng Bưởi), huyện Hoàng Long, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội, thọ 46 tuổi (1875 - 1921).

Phan Kế Bính - Ảnh: vietthuc.org

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Năm 1906, 31 tuổi, ông thi Hương, đỗ cử nhân Hán học nhưng không ra làm quan mà sớm bước chân vào làng báo từ năm 1907, cộng tác với Đăng cổ tùng báo, Lục tỉnh tân văn... phụ trách các phần Hán văn, dịch thuật, biên khảo. Ông là nhân vật trọng yếu trong ban biên tập “Đông Dương tạp chí”, chuyên giới thiệu tư tưởng, văn hóa, văn học Việt Nam và Trung Quốc. Từ đó, ông liên tục hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, báo chí. Kể từ khi thi đỗ cử nhân Hán học đến khi qua đời, tuy chỉ có 15 năm nhưng ông đã để lại cho hậu thế một di sản văn hóa lớn. Từ năm 1907, ông đã hoàn thành bản dịch bộ tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng của Trung Quốc “Tam quốc diễn nghĩa”, tiếp đó là các bản dịch “Đại Nam điển lệ toát yếu” (1915 - 1916),  Đại Nam nhất thống chí” (1916), “Việt Nam khai quốc chí truyện” (1917), “Đại Nam liệt truyện tiền biên, chính biên” (1918 - 1919). Ông là tác giả của sách truyện ký “Nam Hải dị nhân” (1909), “Hưng Đạo Đại Vương truyện” (1912), sách nghiên cứu “Văn học Việt Hán văn khảo” (1918). Đặc biệt, cuốn sách nghiên cứu “Việt Nam phong tục” (1915) đã đưa ông vào hàng các nhà văn hóa học sớm nhất Việt Nam.

Chỉ một chuyện ông viết sách Việt Nam phong tục đề cập đến văn minh nước nhà nhưng lại cổ súy cho đàn bà để răng trắng vào năm 1915 thì đã thấy ông thật là một con người đổi mới: “Đàn ông răng trắng thì chẳng sao, chớ đàn bà nhà tử tế bây giờ mà răng trắng thì coi khí ngộ một đôi chút. Nhưng lâu dần cũng phải quen mắt, có lẽ quen mắt rồi thì trắng lại đẹp hơn đen nhiều.”

Cách ông dẫn dắt vấn đề như thế là phong thái chủ đạo trong cuốn Việt Nam phong tục, đó là một công trình nghiên cứu nghiêm túc, không đơn thuần miêu tả, dễ dàng nhận ra ở đó một thái độ khoa học, thẳng thắn mà khoan hòa. Trước khi bảo vệ hay đả phá một vấn đề nào đó thì ông luôn trình bày thật cặn kẽ cho người đọc hiểu thật kỹ, sau đó mới đưa ra ý kiến riêng, tình lí chỉnh chu, không bao giờ bàn đến một vấn đề gì mà tỏ ra chưa hiểu đến nơi đến chốn. Điều đó thật khác xa với những kẻ chạy đua thời cuộc, công kích để tỏ ra ta đây là tiến bộ nhưng thực chất lại vô trách nhiệm. Việt Nam đầu thế kỷ XX, người ta sống với rất nhiều tệ đoan, lớn nhất là các tục lệ “xôi thịt”, “một miếng giữa làng” mà tranh giành chút sĩ diện hảo. Lại thêm chuộng hình thức đạo đức giả, ma chay thì con cái đua nhau khóc lóc, thuê cả người ngoài về kêu gào lăn lộn để làng nước nghe thấy nhằm tỏ ra mình là con nhà hiếu thảo. Ông đả phá thẳng thừng những tệ đoan đó, như trong cách ông bàn đến đồng bóng: “Than ôi, đạo phù thủy cũng là đạo đồng cốt; còn thịnh hành ngày nào thì dân trí còn ngu dốt ngày ấy.”  Mấy năm gần đây các nhà xuất bản đều in lại đến hàng vạn bản cuốn Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính, phần nào đáp ứng nhu cầu “phú quí sinh lễ nghĩa” của công chúng, bên cạnh đó cuốn sách cũng giúp cho công chúng suy cổ mà chiêm nghiệm, xem cái gì hay thì giữ, dở thì không theo.

Một việc khác, trong cuốn Việt Nam phong tục, tác giả cũng có những kiến giải súc tích về việc buôn bán. Ông chỉ ra rằng việc buôn bán của ta không được thịnh vượng bằng các nước khác là bởi: một là không coi trọng nghề buôn bán, phần nhiều chỉ nô nức về đường công danh. Hai là vì bản tính nhút nhát không dám đi xa, cái gì cũng chờ người ta mang đến tận nơi rồi mua tranh bán cướp với nhau. Ba là không có lòng thành thật, của thì một nhưng nói thách lên mười, “nhờ cái sơ ý của người ta mà kiếm ăn”, tính đoàn kết phường hội không có, mở hội này hội khác công việc chưa thành đã đem lòng ngờ vực nhau, nghi người ăn bớt, sinh ra chán, hội mau tan. Bốn là không có lòng kiên nhẫn, buôn bán động hơi thấy lỗ vốn một chút hoặc hơi vấp váp điều gì thì ngã lòng ngay. Năm là vì ưa phù hoa, lấy sĩ diện với ngoài, “buôn bán hơi được khá khá phát tài, đã vội đổi ngay bộ dáng cũ, cửa nhà trang hoàng rực rỡ, quần nọ áo kia, xe xe ngựa ngựa, coi ra dáng đại phú gia rồi. Chí khí nông nổi như vậy thì tích lũy làm sao cho nên một vốn lớn…”

Và ông đau đáu: “Ít lâu nay đã có người hiểu cách buôn bán là trọng, lập nên công này, việc khác cũng đã ra tuồng và cũng đã được hưởng những lợi quyền sung sướng ở trong việc buôn bán. Song nghìn người mới có được một vài người, chớ phần nhiều vì vẫn u u mê mê như trước mà dẫu có muốn mở mang cũng không có lòng thành tín và lòng kiên nhẫn để cho nên một cuộc hay.

Than ôi! Việc lí tài chung của một nước, trọng nhất là sự buôn bán. Đường buôn bán có thịnh thì nước mới thịnh, đường buôn bán mà suy thì nước cũng suy. Thử xem như các nước cường thịnh bây giờ nước nào không có tàu đi buôn đi nhiều nơi. Nước nào là nước không có hiệu buôn lập nhiều chốn, có đâu lại lạ như nước ta, không được một chuyến tàu nào xuất dương, một cửa hàng nào ở ngoại quốc, vậy mà cứ muốn vinh dự như các nước, thì vinh làm sao được?”

Những điều Phan Kế Bính nói cách đây gần thế kỷ, nhưng vẫn cứ là bài học mới mẻ dành cho các nhà doanh nghiệp hiện nay.

Nên nhớ cũng vào thời buổi đó, Tú Xương còn quặn thắt với sự thay đổi “ném bút lông đi, lấy bút chì”, “…Vẳng nghe tiếng ếch bên tai/ Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”... Thế mới thấy tư tưởng của Phan Kế Bính là tân thời, là đổi mới rất sớm.

*

Là học giả uyên thâm, dĩ nhiên Phan Kế Bính quan tâm đến văn chương. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày mất của ông, xin dẫn lại một bài viết ngắn, giọng văn thật trong sáng, ngõ hầu giúp bạn đọc yêu văn chương hiểu thêm về một con người có tư tưởng đổi mới cách đây đã gần một thế kỷ:

Văn chương là gì?

Ta trông lên bầu trời trăng sao vằng vặc, sông Ngân hà lấp lánh, lúc cầu vồng mọc, khi áng mây bay, bóng ráng chiều hôm, cơn mưa buổi sớm, làm cho vui mắt ta, cái ấy gọi là văn chương của bầu trời.

Ta nhìn xem dưới đất, ngọn núi kia cao chót vót, khúc sông nọ chảy quanh co, chỗ rừng núi, nơi đầm lầy, cây cổ thụ um tùm, đám cỏ hoa sặc sỡ, nào thành nào quách, nào tháp nào chùa, nào đám đồn điền cây cối tốt tươi, nào chỗ thị thành lâu đài san sát, làm cho sướng mắt ta gọi là văn chương của trái đất.

Ta xem trong sách, nghe lời nghị luận của những bậc thánh hiền, xem các bài trước tác của các nhà văn sĩ, câu văn, giọng nói, khúc hát, điệu ca, êm như tiếng đàn tiếng địch, vang như tiếng sáo tiếng chuông, làm cho vui tai ta, sướng dạ ta, gọi là văn chương của loài người.

Văn là gì? Văn là vẻ đẹp. Chương là gì? Chương là vẻ sáng. Lời nói của người ta tựa như có vẻ đẹp, vẻ sáng cho nên gọi là văn chương.”

T.T
(271/09-11)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM TRƯỜNG THI  

    Trong số các nhà thơ thời tiền chiến người quê gốc Nam Định, có ba nhà thơ mặc dù khác nhau là không được sinh ra cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, cùng một miền đất nhưng họ lại rất giống nhau là đều khóc tiếng khóc chào đời nơi vùng đồng chiêm trũng, nghĩa là nơi được xem là những cái rốn nước của tỉnh Nam Định.

  • HỒ HUY SƠN  

    Năm 2019, văn đàn Việt chứng kiến một cuộc chuyển giao trong đời sống văn học trẻ nước nhà. Thế hệ 8X vẫn cần mẫn viết nhưng có xu hướng trở nên lặng lẽ hơn; trong khi đó, thế hệ 9X lại đang có một sức bật không kém phần táo bạo, bất ngờ. Bài viết dưới đây nằm trong sự quan sát mang tính cá nhân, với mong muốn đưa đến người đọc những nét nổi bật trong năm qua của văn chương trẻ.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trong mấy thập niên gần đây, cái tên Nguyễn Thị Thanh Xuân không còn xa lạ với độc giả trong cả nước.

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH  

    Trong một tiểu luận bàn về Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại, học giả Trần Đình Sử xem “ngoại biên hóa chủ yếu là phương thức tồn tại thông thường của văn học”.

  • HỒ THẾ HÀ

    Mấy mươi năm cầm bút đi kháng chiến, Hải Bằng chỉ vỏn vẹn có 1 tập thơ in chung Hát về ngọn lửa (1980) ra mắt bạn đọc.

  • LÝ HOÀI THU    

    Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi.

  • LÝ HOÀI THU    

    Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi. 

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH  

    Trong thế hệ những nhà văn tuổi Canh Tý đương thời (sinh năm 1960), Hồ Anh Thái chiếm lĩnh một vị trí nổi bật. Càng đặc biệt hơn khi hình ảnh con chuột từng trở thành biểu tượng trung tâm trong văn chương ông. Nhân dịp Tết Nguyên đán Canh Tý (2020), hãy cùng nhìn lại cuốn tiểu thuyết được ông viết cách đây gần một thập kỷ.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO

    • Để chọn được những áng thơ hay, những người thơ có tài, người ta thường mở các cuộc thi, và cuối cùng là giải thưởng được trao.

  • PHẠM XUÂN DŨNG

    Nhà thơ Tố Hữu là người xứ Huế nhưng lại có nhiều duyên nợ với Quảng Trị, nhất là đoạn đời trai trẻ, đặc biệt là với địa danh Lao Bảo.

  • TRẦN THÙY MAI  

    Đọc tập sách của Nguyễn Khoa Diệu Hà, với hơn 30 tản văn, tôi có cái cảm giác như đang ngồi trên tấm thảm thần Aladin bay về một miền mà không có xe tàu nào đưa ta đến được một miền thương nhớ đặc biệt “Ở xứ mưa không buồn”!

  • NGUYỄN QUANG THIỀU  

    Có không ít các nhà thơ lâu nay coi sứ mệnh của thơ ca không phải là viết trực diện về những gì đang xẩy ra trong đời sống con người.

  • VŨ VĂN     

    Một mùa xuân nữa lại về, mùa xuân của hòa bình, của ấm no và những đổi thay của đất nước. Nhưng đã có thời kỳ, những mùa xuân của dân tộc đến vào những lúc chiến tranh vô cùng gian khổ, trong lòng nhiều người từng sống qua những năm tháng ấy lại dâng lên niềm thương nhớ Bác, nhớ giọng nói của Người, nhớ những lời chúc Tết của Người vang lên trên loa phát thanh mỗi đêm Giao thừa.

  • ĐỖ QUYÊN  

    1.
    Du Tử Lê
    thường được xem là một trong bảy nhà thơ hàng đầu của nền văn học miền Nam Việt Nam trước năm 1975, cùng với Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Đinh Hùng, và Nguyên Sa. Cây thơ cuối cùng ấy đã hết còn lá xanh giữa mùa thu này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ    

    (Nhân đọc các tập truyện của Trần Bảo Định vừa được xuất bản)

  • LƯU KHÁNH THƠ   

    Giai đoạn giao thời ba mươi năm đầu thế kỷ XX đã chứng kiến sự thay đổi vị trí xã hội của người phụ nữ. Từ “chốn phòng the”, một số người phụ nữ có tri thức và tư tưởng tiến bộ đã mạnh dạn vươn ra ngoài xã hội, bộc lộ suy nghĩ, chủ kiến riêng và thể hiện con người cá nhân của mình.

  • PHẠM PHÚ PHONG    

    Trong vô tận (Nxb. Trẻ, 2019) là cuốn sách thứ mười ba và là tiểu thuyết thứ tư của nhà văn Vĩnh Quyền.

  • HOÀNG THỤY ANH

    “Đá”(1) là tập thơ thứ 5 của tác giả Đỗ Thành Đồng. Điểm xuyết, vấn vương một chút dáng dấp của “Rác”, “Rỗng”, “Xác”(2), nhưng thần thái của “Đá” đã khác.

  • ĐÔNG HÀ

    Mỗi dân tộc có một số phận lịch sử. Và lịch sử chưa bao giờ công bằng với dân tộc Việt chúng ta, khi trải qua hơn bốn ngàn năm, luôn phải đặt số phận con dân dưới cuộc chiến. Vì vậy, để viết nên trang sử nước nhà, không chỉ những chính sử gia, mà các nhà văn, nhà thơ, người cầm bút, không tránh chạm ngòi bút của mình vào nỗi đau của dân tộc.