Khi ông chủ ngân hàng cưới... nàng thơ

11:07 09/02/2009
THÁI DOÃN HIỂUGiữa ngổn ngang những dữ kiện, con số, tiền nong, ngành Ngân hàng Việt vẫn hào hiệp tặng cho thi đàn ra một hồn thơ tinh tế: Nguyễn Ngọc Oánh.Trong thi sĩ Nguyễn Ngọc Oánh có hai con người: một trẻ và một già!

Đây là chàng trẻ Oánh:
Nguyễn Ngọc Oánh yêu và anh rất dại dột cất công đi tìm bề sâu để khám phá bản chất của nó. Nhưng anh hiểu làm sao được chiều sâu thẳm của tình yêu (?) hệt như nhà vật lý Đức Risa Hanxơ khi ông này giảng giải cho sinh viên: “Vấn đề tuổi của trái đất quá ư phức tạp. Nó cũng khó hiểu như trái tim cô gái. Ta đứng trên mặt đất nhưng không biết thật chính xác về tuổi của nó, cũng như ta tiếp xúc thường xuyên với các cô gái, nhưng đố ai hiểu rõ họ nghĩ gì về ta”. Rốt cuộc, nhà thơ chỉ tìm được cái bâng quơ “ngẩn ngơ đi tìm”, để rồi “bước hẫng lên tiếng cười”. Tâm trạng chông chênh này của Nguyễn Ngọc Oánh là trạng huống mất cân bằng của tuổi xuân, khát yêu, nhưng không thể vượt rào vì những tín điều đạo đức của người có nhân cách.
                        Ai làm cho đất lên mây
                        Để mây hôn đất đắm say giữa trời
                        Tôi - nàng cách một tiếng cười
                        Mà sao bạc mái tóc rồi vẫn xa
                                                            (Viết dưới chân Hoàng Liên Sơn)
Thực chất, tình yêu trong thơ Nguyễn Ngọc Oánh chỉ là một thứ tình bạn được nâng cấp lên mức cao sống động bởi sự chia biệt giới tính. Trước bạn đọc, nhà thơ đã phải thật thà cởi mở thanh minh rạch ròi:
                        Tôi - nàng nửa bạn, nửa yêu
                        Nửa mưa, nửa nắng, nửa chiều, nửa mai
                        Nửa đêm chợt tỉnh giấc dài
                        Quờ tay chạm ánh trăng ngoài chấn song.
                                                                        (Nửa)

Chính thứ thơ ca - mặt trời của cuộc sống này đã đem đến cho thi phẩm của Nguyễn Ngọc Oánh những bài thơ tình hay cả tứ lẫn lời.
Thơ Nguyễn Ngọc Oánh đã giúp ta khám phá sâu hơn bản chất phái đẹp. Theo anh, phụ nữ là một nửa bầu trời cấu tạo nên nửa trái đất. Họ không bao giờ khờ khạo. Họ sinh ra ở độ tuổi mấy nghìn năm trước công nguyên. Phụ nữ rõ ràng thông minh hơn nam giới vì họ biết ít hơn nhưng hiểu nhiều hơn. Các nàng thường hay lập lờ đưa vào tình bạn cái mà họ mượn tạm ở tình yêu. Trong yêu đương, biết 100 người phụ nữ thì vẫn không hiểu được ai sâu, nhưng nếu biết thật cặn kẽ một phun nữ thì sẽ hiểu được cả trăm người. Ở người phụ nữ, nhan sắc quan trọng hơn trí thông minh, bởi cánh đàn ông ưa nhìn hơn là thích suy nghĩ. Còn các quý bà thì rất thích được khen tặng dẫu nhan sắc không được mặn mòi cho lắm, vì vậy các nàng hay bị đàn ông tìm mọi cách làm hại.

Ở đời, có ba thứ làm lòng người mát dịu hẳn lại, quên hết mọi tục lụy phiền toái là: nước, hoa và sắc đẹp phụ nữ. Dường như nơi nào có người đẹp thì nơi đó có tiếng thở dài của đàn ông. Nguyễn Ngọc Oánh thuộc dạng người thích phiêu lưu tình ái. Trong trời đất không có thứ gì phiêu lưu nguy hiểm cho bằng yêu đương. Anh thích thú say mê mạo hiểm dấn thân vào lãnh địa này. Nguyễn Ngọc Oánh giấu gì cũng được trừ khi yêu. Anh thích biểu dương, làm dáng trước mỹ nhân và âm thầm sẵn sàng chịu thua thiệt trong bóng tối. Khi thần yêu xâm chiếm, ngọn đèn tình của thi sĩ chỉ còn cháy sáng một bên y như thể không yêu là không còn được sống “cuộc đời anh khởi sự tự em đây” (Aragông). Nguyễn Ngọc Oánh đã để lại trong thơ một trạng huống chống chếnh say của một bên. Cách tạo tứ quả là duyên dáng tội nghiệp. Phạm Tiến Duật có lý khi anh gọi Nguyễn Ngọc Oánh là người làm thơ “cả nghĩ”, Bằng Việt trầm trồ “Tài hoa và phóng túng”. Tôi thêm: “đa tình” nữa! Nguyễn Ngọc Oánh thuộc nòi tình. Cặp mắt thi sĩ của anh hễ liếc vào chỗ nào thì chỗ đó lung linh lên, chới với.

Người nào không có được một ý trung nhân để mà say thì bất cứ ở đâu người đó vẫn là kẻ cô độc vật vờ như cái bóng dẫu sống chen vai thích cánh giữa mọi người. Không được yêu thời trai trẻ, không được thỏa mãn chí tang bồng thời oanh liệt, Nguyễn Ngọc Oánh yêu bù bằng cách đi tìm người đẹp để yêu - yêu trong mộng tưởng. Đố ai cấm được nào!
Cuộc đời là bông hoa, tình yêu là mật hoa. Thiếu ăn thể xác ốm o, thiếu yêu linh hồn cũng rã rời vật vã. Người Pháp bảo: ”Thiếu yêu như thiếu nắng”. Cuộc sống thiếu tình yêu thì không thể gọi là sống mà chỉ là tồn tại. Đây là những giây phút ngất ngây thần tiên nơi trần thế của danh sĩ với giai nhân. Chính tuổi già không thể gìn giữ Nguyễn Ngọc Oánh thoát khỏi vòng ái ân nhưng tình yêu đã bảo vệ thắp lửa cho thi nhân thoát ra khỏi tuổi già. Tình yêu quả là không có giới hạn, chừng nào trái tim Nguyễn Ngọc Oánh còn đập thì anh còn yêu. Nó chứa vẻ đẹp thanh cao, trong sáng, sang trọng mang lý tưởng thẩm mỹ kỳ lạ lung linh như bảy sắc cầu vồng ảo giác. Khi yêu thật sự người ta mới thực sự được sống làm người. Càng tiến sâu vào tình yêu, linh hồn con người càng trở nên bất tử.
           
Và, còn đây là ông lão Oánh:
                        Tháng năm xanh ai đốt
                        Tàn tro bay trắng đầu
                        Về quê thăm bạn cũ
                        Mây bồng bềnh mắt nhau
                                                            (Thăm bạn)

Thăm bạn là một bài tứ tuyệt già giặn. Nhà thơ có tài lấy một sợi tóc từ xanh hóa bạc mà gói được cái ngắn ngủi phù du bi thương của cả một kiếp người!
Hai ông bạn cố trí thuở chăn trâu cắt cỏ, đặt lờ thả ống trúm ngày đi tóc hãy còn xanh, sau bao năm xa cách nổi chìm, giờ gặp lại nhau nơi cố hương trong cảnh quan dân lệ cách, mái đầu bạc xát mái đầu bạc, tóc hai người bạn đã như mây trắng xóa soi vào mắt nhau bồng bềnh, rưng rưng, cảm thương dâu bể đến nghẹn lời! Tứ thơ hợp mà mở, kiệm lời và vang, mộc mà sâu thẳm.
                        Về quê thăm bạn cũ
                        Mây bồng bềnh mắt nhau.
Xao động bâng khuâng trước lẽ biến dịch của trời đất và kiếp người, bài thơ đã đánh thức dậy bao kỷ niệm tươi nguyên ấm nồng trong thời niên thiếu xa vời yêu dấu tận làng quê. Mái tóc bạc quả là một chứng tích sống động, là “vòng hoa danh dự”(Kinh Thánh), là văn khố hùng hồn của quá khứ.

Đã từng đi công cán khắp năm châu bốn biển, sành sỏi với đời, Nguyễn Ngọc Oánh đã đúc rút được khá nhiều những châm ngôn lịch lãm bằng thơ: “Nước mắt tuôn trong veo- Hỏi rằng nguồn có sạch?;”Sao nỡ đập vỡ kính- Để nhận về muôn gươm!”;”Dẫu là đỡ kịp hoa rơi-Thì làn hương vẫn chơi vơi cuối cành”; ”Hoa rơi trên đất vẫn hoa - Hoa thơm lạc tận xó nhà vẫn thơm”; “Núi cao không phải nhiều lời - Nụ cười chẳng phải phiên dịch”; “Người qua biên giới trình hộ chiếu - Gió qua biên giới mây chào mời”; “Số trúng - người đời nâng niu / Vé trật - hẩm hiu trắng hè” (Giao cảm không màu); “Đầu nguồn nước mặn tiếng chim - Cuối sông nước mặn nỗi niềm phù sa” (Tản mạn nước)... Không phải cho là mất, chính cho là được. Trí tuệ giàu lên nhờ cái nó nhận vào, con tim giàu lên nhờ cái nó cho đi, Nguyễn Ngọc Oánh đã thấm nhuần được giáo lý của nhà Phật:
                        Trước bàn tay ngửa ra
                        Thấy mình thêm nghèo khó
                        Trao món tiền nho nhỏ
                        Thấy mình vừa giàu thêm

(Trước bàn tay)

Anh lấy lời một nạn nhân chiến tranh, tố cáo chiến tranh hủy diệt bằng chất độc màu da cam “Tru di tam tộc - ba lần chém / Đầu độc một đời - giết nối đời” (Kể làm chi). Anh cảm hiểu đời sống và tâm trạng lá rụng về cội của người xa xứ “Ông cõng bà, dẫu là nắm tro, mà dường rất nặng - đôi mắt đục mờ dõi cuối trời xa” (Nơi xa xứ) rước nắm tro vợ về cố hương để được nằm cạnh bên mẹ cha.  Anh suy nghĩ sâu về thân phận con người trong chiến tranh trước bức tường lính Mỹ chết trận ở Việt Nam trên đất Hoa Kỳ. Anh để mắt bận lòng đến những em nhỏ bới rác “Phận người như lá đài bi - Mưa tơi tả dập cớ chi còn vùi”...

Nguyễn Ngọc Oánh viết về cha và mẹ mình với nhiều ân tình ruột thịt. Cha anh là một ngư dân “Lọt lòng đã lấm cát - Tiếng sóng thay lời ru - Biết bơi trước biết đứng - Tanh nồng những giấc mơ” (Cha và biển), người cha mà đời sống lam lũ đến mức “Nụ cười luôn đi vắng - Nhọc nhằn tới buông neo” (Cha và biển). Mẹ anh là một người phụ nữ Việt hiền đức, đảm đang, trung hậu. Ngày mẹ mất, tiễn mẹ ra đồng an nghỉ, Nguyễn Ngọc Oánh thấm thía tổng kết cuộc đời cơ cực lam lũ của Người Mẹ trong những nét phổ quát khắc chạm:
                        Con nhìn vào đâu cũng hình bóng mẹ
                        Liêu xiêu gánh rạ lội ngược cơn giông
                        Tất bật gánh củi lún cả chiều đông
                        Đời mẹ như đòn gánh không mấu
                        Vận rủi đeo bám, rơi tuột vận may
                        Một đời bán lưng bới tìm hạt gạo
                        Một đời trốn hoài vẫn trong cơn mưa
                        Áo mới một đời vẫn là áo cưới
                        Tên gọi một đời vẫn là tên con
                                                            (Gió đưa cây cải về trời...)
Trong đời làm thơ, anh viết cho mẹ sáu bài. Bài nào cũng hay, mỗi bài mỗi vẻ, tỏ rõ anh là con người hiếu đễ luôn yêu kính đấng sinh thành.
Nguyễn Ngọc Oánh dành cho người vợ tao khang của mình những lời lúa khoai mộc mạc đậm đà nghĩa tình:
                        Vết nhăn trên trán rạn nhiều
                        Là bao vất vả sớm chiều trên nương
                        Chân chim đuôi mắt mờ sương
                        Là khi con ốm chiếu giường rỗng tênh
                        Vết hằn khóe miệng nổi nênh
                        Là khi gạo củi một mình kiếm mua
                        Hay hờn hay giận hay đùa
                        Là ngần ấy vị ngọt chua đã từng
                                                            (Mặn muối gừng cay)
...

Thơ Nguyễn Ngọc Oánh nhìn chung qua các tập là thứ thơ đều đều monoton, không có điệp khúc cao trào. Hãy coi chừng: đi trên đại lộ dài hun hút mà hai bên đường phố xá, nhà cửa chỉ đúc toàn một kiểu thì còn gì chán mắt bằng. Những biến tấu riêng cho mỗi bài sẽ giúp anh khắc phục được sự đơn điệu khi sử dụng thể lục bát, thơ năm chữ, bảy chữ truyền thống, kể cả chủ đề tình yêu quá quen thuộc với tác giả để có được cái riêng khó lẫn thơ người.

Ngân hàng là nghề, thơ là nghiệp. Nguyễn Ngọc Oánh là người thăng tiến, hanh thông, đạt vận cả nghề lẫn nghiệp. Nghề để nuôi thân, nghiệp để nuôi hồn. Đã mắc vào nghiệp dĩ này rồi, anh là người có thực tài thơ. Thật kỳ diệu là nhà kinh tế học này - người đã góp phần giữ cho đồng tiền khỏi mất giá lại có thể đi đến đâu là hòa lòng mình với vạn vật, trẻ thơ và già giặn trong thi ca đến thế.
Nguyễn Ngọc Oánh đã tự bạch: “Tôi làm nghề ngân hàng, một nghề đòi hỏi phải nhạy cảm, dám quyết đoán và giàu mơ ước... điều này gần với thơ. Hàng ngày sống với những con số, những tư duy chính xác, có bản lĩnh trong quản lý và kinh doanh, càng gần đến thơ... Thơ như của nhặt được, nhiều khi tự dưng mà có. Nàng thơ kiêu sa thường đến lúc nghỉ ngơi. Vì thế, dù có bận đến đâu tôi vẫn có thể sống với nàng, miễn là vẫn rung động vì nàng:
                        Việc công không láng cháng
                        Tản mạn chút mộng mơ
                        Bạc tiền như gió thoảng
                        Còn lại một túi thơ

Người xưa đặt vấn đề khá nặng về chức năng của thơ ca: Trang Tử viết “Thi dĩ đạo chí” (Thơ lấy đạo để nói lên ý chí); Tuân Tử phán: “Thi ngôn dĩ kỳ chí dã” (Thơ để nói chí mình) dĩ nhiên rồi, nhưng khi Bạch Cư Dị truyền dạy: “Thơ bổ sát thời chính” (Thơ giúp xem xét việc chính sự); Trần Tử Ngang còn thêm “Thi dĩ bổ quốc” (Thơ lấy nghĩa giúp nước) thì điều đó mới thật là trọng đại. Thơ của Nguyễn Ngọc Oánh là thứ thơ “Nhặt được của một cõi lòng biết hát và biết đau”. Thi pháp của anh đã chín, vững vàng. Điều đáng lưu ý là Nguyễn Ngọc Oánh đã và đang cho thơ bắt rễ sâu vào thực thể xã hội để hút lấy tinh chất của Đời. Muốn làm một nhà thơ lớn hay bé còn tùy thuộc căn bản ở vấn đề xã hội mà nhà thơ phản ánh lớn hay bé. Các nhà thơ không nên chỉ chăm chút tỉa tót cho gương mặt mình thật mỹ miều mà lờ đi những vấn đề nóng bỏng, then chốt của thời cuộc. Công chúng bạn đọc sẽ quay lưng lại với thơ chừng nào thơ không quan tâm đến số phận của nhân dân và đất nước. Trần Nhuận Minh với tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ đã tái bản đến lần thứ 12 là tấm gương tiêu biểu đi tiên phong về ý tưởng này.

Thơ - với Nguyễn Ngọc Oánh tất cả đang phía trước. Anh hãy vững tin vào điều đó. Hơn mười bốn năm qua, chúng tôi đã mở lòng ra đón đọc từng bài một của người đăng tải trên các báo, cùng 6 tập thơ chính đã xuất bản với một cảm tình nồng thắm.
Chúng tôi không chúc anh Oánh làm được nhiều thơ, in ít vậy thôi, nhưng là thứ trầm tích. Cứ theo hướng ấy, anh có thể ngồi vững giữa chiếu thơ.
T.D.H

(nguồn: TCSH số 192 - 02 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...

  • LÊ THỊ HƯỜNG1. Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.

  • TRẦN THÙY MAICó lần anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: tính chất của người quân tử là phải "văn chất bân bân". Văn là vẻ đẹp phát tiết ra bên ngoài, chất là sức mạnh tiềm tàng từ bên trong. Khi đọc lại những bài nghiên cứu về văn hóa – lịch sử của anh Tường, tôi lại nhớ đến ý nghĩ ấy. Nếu "văn" ở đây là nét tài hoa duyên dáng trong từng câu từng chữ đem lại cho người đọc sự hứng thú và rung cảm, thì "chất" chính là sức mạnh của vốn sống, vốn kiến thức rất quảng bác, làm giàu thêm rất nhiều cho sự hiểu biết của người đọc.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCXuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cử nhân Hán học, giỏi chữ Hán, thông thạo chữ  Pháp, từng làm quan dưới thời Nam triều, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhân cách độc đáo.

  • HỮU VINH Chúng ta đã thưởng thức thơ, ca Huế, ca trù, hò, tuồng của thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ lừng lẫy của miền sông Hương núi Ngự. Nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của thi ông mà không nói đến thơ chữ Hán của thi ông là một điều thiếu sót lớn.

  • ĐỖ LAI THÚYQuang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là xứ sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do thổ ngơi xứ Đoài, phần kia do văn học lãng mạn.

  • CAO XUÂN HẠOĐọc bài Nỗi đau của tiếng Việt của Hữu Đạt (H.Đ) trong tuần báo Văn nghệ số 9 (2-3-2002), tôi kinh ngạc đến nỗi không còn hiểu tại sao lại có người thấy mình có thể ngồi viết ra một bài như thế. Tôi cố sức bới óc ra nghĩ cho ra người viết là ai, tại sao mà viết, và viết để làm gì. Rõ ràng đây không phải là một người hoàn toàn không biết gì về giới ngôn ngữ học Việt . Nhưng hầu hết những điều người ấy viết ra lại hoàn toàn ngược với sự thật.

  • MAI VĂN HOAN.Tôi biết Nguyễn Duy qua bài thơ “Tre Việt ” in trên báo Văn Nghệ. Từ đó, tôi luôn theo sát thơ anh. Mở trang báo mới thấy tên anh là tôi đọc đầu tiên. Với tôi, anh là một trong những người hiếm hoi giữ được độ bền của tài năng.

  • THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMỗi loại hình nghệ thuật ngôn từ đều có phong cách riêng trong cư xử với đối tượng mà nó phản ánh. Chính vì thế, đề tài tiểu thuyết trong khi mang những tính chất chung có của mọi thể loại văn học, nó đồng thời mang những tính chất riêng chỉ có của thể loại tiểu thuyết.

  • VĂN TÂMNhà thơ Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng) tuổi Tỵ (1941) quê "xứ Đoài mây trắng lắm", là một trong những thi sĩ bẩm sinh của thơ ca Việt hiện đại.

  • THANH THẢOHoàng Phủ Ngọc Tường có tập thơ "Người hái phù dung". Hoa phù dung sớm nở tối tàn, vẫn là loài hoa hiện hữu trong một ngày.

  • JOSH GREENFELDNgười Nhật vốn nổi tiếng vì tính bài ngoại của họ, thể hiện qua nghệ thuật cắm hoa và trà lễ. Tuy nhiên cũng từ rất lâu rồi nhiều nhà văn Nhật Bản vẫn quyết liệt phấn đấu mong tìm kiếm một chỗ đứng đáng kể trên các kệ sách của các thư viện nước ngoài. Họ làm thế không chỉ vì có nhiều tiền hơn, danh tiếng hơn mà còn vì một điều rằng những ai có tác phẩm được dịch nhiều ở nước ngoài thì sẽ được trân trọng, chờ đón ở trong nước!

  • BỬU NAM            Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của văn hào Victor Hugo (1802 - 2002)1. Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mệnh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học; bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỷ qua trong nền văn học và văn hóa Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của Hugo như “tất cả được lồng vào tất cả”.

  • LẠI MAI HƯƠNGTiểu thuyết Những người khốn khổ có một số lượng nhân vật nữ rất đông đảo, nhưng mỗi nhân vật mang một sức sống riêng, một sinh lực riêng bởi nghệ thuật xây dựng các nhân vật này không hoàn toàn đồng nhất. Bài viết sẽ đi vào khảo sát một số nữ nhân vật tiêu biểu, bước đầu thử tìm hiểu thủ pháp xây dựng và cái nhìn của Hugo đối với loại nhân vật này.

  • PHẠM THỊ LYTôi viết những dòng này vì biết rằng giáo sư Cao Xuân Hạo sẽ không bao giờ trả lời bài viết của một tác giả như anh Phạm Quang Trung và những gì mà anh đã nêu ra trong bài "Thư ngỏ gửi Giáo sư Cao Xuân Hạo đăng trên Tạp chí Sông Hương số 155, tháng 1-2002.

  • LÝ HOÀI THU“Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” ( *) (nguyên bản: Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình) là tác phẩm hồi ký của bà Trần Kiếm Qua viết về lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn và đại gia đình Trung Việt của ông. Bằng sức cảm hoá của những dòng hồi ức chân thực, tác phẩm của phu nhân tướng quân đã thực sự gây xúc động mạnh mẽ trong lòng bạn đọc Việt .

  • NGUYỄN BÙI VỢICách mạng tháng Tám thành công, Phùng Quán mới 13 tuổi. Mồ côi cha từ năm 2 tuổi, cậu bé sinh ra ở làng Thuỷ Dương xứ Huế chỉ được học hết tiểu học, sáng đi học, chiều giúp mẹ chăn trâu, có năm đi ở chăn trâu cho một ông bác họ.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Người tình là một cuốn tiểu thuyết hiện đại nổi tiếng của M.Duras. Tác phẩm đoạt giải Goncourt 1984, và đã từng gây một làn sóng xôn xao trong dư luận. Người tình được tái bản nhiều lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tác phẩm cũng đã được chuyển thành kịch bản phim 1992 (qua đạo diễn Jean-Jacques Annaud).

  • ĐÀO NGỌC CHƯƠNGCho đến nay những ý kiến về phương diện thể loại của tác phẩm Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử vẫn chưa thống nhất. Theo Trần Thanh Mại, đó là bài văn xuôi: “Nay xin đơn cử ra đây một vài đoạn của một bài văn xuôi của Hàn để chứng tỏ thêm cái sức cảm thụ vô cùng mãnh liệt ở nơi nhà thơ lạ lùng ấy.