Khi đường vào văn chương là những mê lộ mới

08:56 03/01/2012
VIỄN PHƯƠNGKhi văn chương tham dự vào những mê lộ mới, mê lộ của nhận thức luận phức hợp hôm nay, khi nhà văn không còn hứng thú trong việc lục lọc, săm soi lại các bảng giá trị trong truyền thống thì tất yếu văn chương sẽ bước vào những cuộc chơi mới.

tranh Picasso, nguồn internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Trong cuộc chơi mới của mình, dù muốn dù không, để thực sự có thể định danh là người chơi mới, nhà văn cũng phải bội ước với một số giá trị đã đóng khung trong truyền thống. Đó như là một quy luật tất yếu và cũng là cách thức để nghệ thuật hướng thượng.

Tiếp xúc với tập truyện ngắn Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông, chúng tôi nhận ra có những dấu vết của cảm quan văn chương hậu hiện đại, văn chương của thời chơi mới. Sáng tác của Nguyễn Vĩnh Nguyên không còn là tấm gương phản ảnh một cách trung thực ngoại giới, mà trong những núi rừng nhiệt đới sáng tạo, nhà văn đã nhìn lại khuôn mặt của mình, để thấy những góc cạnh khác, từ đó bước vào kiến giải những bề khuất lấp trong chốn tiềm thức, những miền sâu thẳm trong thế giới tâm hồn. Văn chương Nguyễn Vĩnh Nguyên đã khước từ hiện thực để làm một cuộc nội soi quyết liệt vào chính bản thể của người sáng tạo, và những ý‎ niệm trên văn bản của tác phẩm từ đó mà sinh ra. Trong thế giới của chữ mọi giá trị đều được cào bằng, nhất là những quyền lực bên ngoài chữ mà truyền thống đã vững tin theo. Đến với thế giới nghệ thuật Nguyễn Vĩnh Nguyên, chỉ có chữ là tất cả. Chữ sinh lời, đẻ biểu tượng làm sinh động những ám dụ. Những phát ngôn trở nên không còn thứ bậc trong một hệ hình (paradigme) mới, tất cả đã được làm phẳng, mọi tiếng nói đều có quyền cất lên,  chen vai hích cánh nhau làm nên tác phẩm. Sự hoài nghi bao trùm lên toàn bộ tác phẩm trong tập truyện. Nhân vật có những hành vi phá vỡ quy tắc đã được găm sâu trong lí tính. Sự đổ vỡ của trật tự đời sống trong truyện ngắn Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông hay những những sự vụ tưởng chừng như chỉ có trong miền hoang tưởng đi vào tác phẩm như một ám dụ về hiện thực trong “Chữ bay” hay “Chìa khóa của người ăn từ điển”. Đó là những minh chứng rõ ràng làm cho những thang giá trị cũ, của kiểu phản ánh như thực ngoài đời từng tồn tại trong truyền thống, giờ đã đổ vỡ. Không khó để nhận thấy con người trong thế giới chữ của Nguyễn Vĩnh Nguyên là những thân phận đứng trước sự tan tác của trật tự đời sống, trở nên bơ vơ, lạc loài, vong thân. Tâm trạng hoài nghi, sự bất an bủa vây họ. Không còn tin tưởng vào đời sống bên ngoài đã đẩy con người đi đến giới hạn tột cùng của sự hoài nghi: “Sẽ không một tiếng kêu cứu nào kịp thoát ra. Tất cả sẽ biến mất. Những ‎ý nghĩ trong đầu cũng biến mất” (Bản tường trình kèm theo những tra cứu khác nhau xoay quanh một sự cố không khớp). Đó chính là sự đả phá lí tính, vì lý tính giờ đây là cái cần phải đả phá, thứ lý tính nô lệ, tôi đòi, bầu lên xã hội kỹ trị tù đày con người, sự đánh mất hiện hữu của thân xác và sự vắng mặt của tâm thức thời hậu hiện đại được Nguyễn Vĩnh Nguyên kêu gọi về trong tác phẩm.

Người đọc can dự vào văn bản cũng chính là lúc anh ta tham dự vào một cuộc chơi, một cuộc chơi hoàn toàn mới với những điều luật mới, luật chơi của sự đồng sáng tạo sẽ đưa người đọc đi về muôn nẻo, có khi còn là nẻo ngược chiều với sự sắp đặt ban đầu của tác giả. Bút pháp của Nguyễn Vĩnh Nguyên là một minh chứng cho một kiểu dạng văn chương mới đã hiện tồn trong văn học đương đại hôm nay. Hiện thực trong văn bản không còn là sự trình chiếu hình ảnh ngoại giới mà là những yếu tố cấu trúc nên từ tâm thức chủ quan của chính nhà văn. Nhà văn không còn vấn vương với những đường xưa lối cũ trong thi pháp văn chương hiện thực trước đây. Tất cả, hầu như mất dấu trong toàn bộ tập truyện ngắn này. Chính bởi thế, mà người đọc khó lòng tri nhận một hình ảnh, một khuôn mặt, một sự kiện nào đó một cách trọn vẹn trong mỗi truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên. Tác phẩm không còn nhiệm vụ là những đại tự sự phải vẽ cho đúng, cho hết khuôn mặt của hiện thực, những thông điệp mang tính phổ quát cũng không hề xuất hiện, và không cần phải xuất hiện trong truyện ngắn Nguyễn Vĩnh Nguyên. Vì sự thực, làm gì có một thế giới khách quan phổ quát, thế giới chỉ là những mảnh vỡ, của tôi, do tôi và được tôi cấp nghĩa mà thôi. Nói như Einstein, thế giới như tôi thấy, nên luôn mang tính tương đối. Rất buồn cười nếu một ai đó cứ cố công – cái công dã tràng, đi tìm sự sai biệt, lệch chuẩn của văn bản và hiện thực để xem đó như một sự mắc lỗi của nhà văn. Ở đây, xin nhớ cho, trong thế giới nghệ thuật Nguyễn Vĩnh Nguyên, tính ngụy tạo bao trùm câu chữ.

Nếu đối sánh với những dạng thức kết cấu trong văn chương truyền thống, chúng ta sẽ thấy ngay rằng Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông là tập truyện ngắn có những đột phá mới trong kết cấu. Đôi khi sự vượt phá này khiến người đọc mang những vết hằn truyền thống khó chịu và hoài nghi rằng một kiểu kết cấu bị vỡ vụn như thế liệu có bao hàm hay chuyển tải một ý nghĩa nào đó hay không. Tính chất đa trị, xu hướng giải nhân cách hóa, giải thiêng, xem thế giới như là một hỗn trạng không hơn không kém đã đưa truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên tiến tới xô ngã và làm đỗ vỡ, gãy vụn kiểu kết cấu theo dòng logic sự kiện và sự trôi lăn theo quy luật nhân quả của các chi tiết có trong kết cấu văn chương cũ. Dạng thức kết cấu chúng tôi muốn nói tới trong truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên đó là dạng kết cấu lắp ghép, phân mảnh - một món ăn khoái khẩu của các nhà văn hậu hiện đại. Đứng trước một không gian thế tục hỗn độn, một không gian “thậm phồn” (mượn chữ Hoàng Ngọc –Tuấn), nội tại văn bản nếu như muốn chuyển tải cả một quái trạng khổng lồ theo màu sắc nguyên y như ngoại giới chắc chắn sẽ trở nên chật chội, và khát khao xác tín hiện thực là bất khả. Kết cấu lắp dựng trở thành phương thức nghệ thuật đắc dụng của Nguyễn Vĩnh Nguyên. Tính chất lắp ghép trước hết hiển lộ ngay trên bề mặt tác phẩm. “Những tia chớp hay vệt truyện facebook” là một truyện ngắn tiểu biểu cho kiểu kết cấu này. Tác giả chia truyện ngắn thành 14 đoạn (cũng có thể xem đó là 14 truyện chớp) được đánh số thứ tự, mỗi đoạn có một dung lượng khác nhau và nội dung mỗi đoạn cũng chuyển tải những ý tưởng khác nhau. Không có một sự nối kết nào giữa các đoạn, hay nói đúng hơn không có một phép tu từ nào xuất hiện để nối kết, nếu như có thì cũng là những kết nối ngầm ẩn. Tất cả sự hỗn mang đó tạo thành một chỉnh thể. Nhà văn thực sự chơi khăm khi cuối tác phẩm này anh ta viết: “Thành thật xin lỗi độc giả.” Người viết muốn gì? Lẽ nào anh ta muốn nhìn những khuôn mặt cau có của người đọc vì khó chịu trước trò chơi ngôn ngữ tưởng chừng như vô trách nhiệm của người sáng tạo? Thế giới của những Ý niệm vẫn mãi là những sợi dây ngầm ẩn bên dưới trò chơi và luật chơi. Ở đây chúng ta có quyền đọc một cách lộn xộn không theo thứ tự của từng phân đoạn. Có thể xáo trộn chúng tùy theo hứng thú của chúng ta. Không có một luật chơi cố định nào cả. Và cũng không ai có đủ thẩm quyền để thảo ra một luật chơi cố định khi thế giới đã trở nên ngụy tạo. Luật chơi hoàn toàn tùy thuộc vào chủ quan của những ai can dự vào trò chơi. Phải chăng thế giới ngoại tại đã bị bóp méo, xáo trộn? Sự thức nhận ngoại giới hoàn toàn tùy thuộc vào chủ quan của chủ thể nhận thức. Kiểu kết cấu lắp ghép này được Nguyễn Vĩnh Nguyên triển khai trong nhiều tác phẩm khác. Nó tương đương như một trò chơi xếp hình. Toàn thể bức tranh cần tìm được tạo nên bởi những mảnh vỡ nhỏ đặt xa nhau. Khi người đọc, kẻ can dự vào trò chơi, tìm được tổng thể bức tranh thì đó cũng là lúc anh ta đã chiến thắng trong trò chơi. Người đọc chính là người khoác ý niệm lên cho mỗi cuộc chơi. Sau mỗi cuộc chơi sự sản sinh ý niệm sẽ xảy ra và thậm chí sự sản sinh ý niệm về tác phẩm là vô cùng vô tận. Khả năng tri nhận, kiến thức liên văn bản của người đọc càng rộng thì ý niệm sản sinh sau mỗi một lần đọc tác phẩm càng lớn. Trong chiều sâu của nó có thể diễn giải rằng kiểu kết cấu này là một nỗ lực biểu đạt đầy chủ động của văn nhân, một sự tìm tòi, sáng tạo và thể nghiệm của những người đang dò tìm đường đi cho một sự đổi thay khẩn thiết trong văn chương. Sự đỗ vỡ trật tự thời gian và không gian, sự rỉ mòn của nhận thức, sự khước từ túi khôn lí tính, việc bỏ ngỏ các sự kiện một cách tràn lan vô cớ, việc rải chữ lên bề mặt văn bản như những ký hiệu vỡ vụn, sự kết dính một cách lỏng lẻo giữa các ý tưởng trong mỗi truyện ngắn đã thống trị hầu như toàn bộ các tác phẩm nằm trong tập truyện này. Tất cả làm nên một sự ngạc nhiên, thậm chí là sự khó chịu và cảm giác xa lạ từ phía người đọc. Vậy, thật ra có phải đây là trò chơi vô nghĩa lý, một sự chơi khăm của kẻ cuồng tưởng muốn đả phá nghệ thuật chân chính?  Không là vô nghĩa lý thì ý niệm nào được giấu dưới lớp hành ngôn phức tạp trong một màn quảng diễn bề bộn thủ pháp, một lối chơi khó ưa như thế?  Vạn vật và con người đang hiện hữu trong một quái trạng bị xé nhỏ, hiện thực hiểu như cái truyền thống, đã bị làm sai lệch đến tận gốc rễ. Không còn một cách thức gì để xác định chúng xuất phát trong những điều kiện cụ thể nào của thế giới hiện thực. Hay chính chúng ta đã khước từ hiện thực để đi vào một thế giới ngụy tạo phát xuất từ sự nhận thức và dắt đường đưa lối của chính vô thức chúng ta? Con người của thời mới, của những cuộc chơi mới đã cáo biệt hiện thực trần trụi để truy tìm những giấc mơ hoang tưởng có trong chốn tiềm thức của tộc loại. Và đó chính là một chiều kích mới của một dạng thực tại mới.  Phế truất sự ngự trị của tính logic, Nguyễn Vĩnh Nguyên đang tìm đến một thế giới khác để cấp ý nghĩa cho nó. Ý nghĩa là nhà văn muốn cấp đôi khi lại nằm ngoài sự tri nhận của lý tính, vì anh ta đã thuộc về giấc mơ và những cơn hoang tưởng.

Kiểu nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình đã vẽ nên hình hài của văn chương hiện thực trong mấy thập niên qua. Và ở đây, trong tác phẩm này, Nguyễn Vĩnh Nguyên đã làm một Cuộc bội ước ráo hoảnh (Lê Thăng Long) với dạng thức nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Chúng ta khó có thể “bắt tận tay, day tận trán” khuôn mặt của một nhân vật nào đó trong tác phẩm để nói rằng anh ta biểu trưng, đại diện cho một tầng lớp nào đó trong xã hội. Các nhân vật trong “Quả táo, con rắn, người nam, người nữ, khu vườn và kẻ giấu mặt” là những người hoàn toàn xa lạ, những kẻ vô danh vô tính, những tha nhân, nhưng cũng có thể họ đã hiện hữu đâu đó trong ta hoặc ngoài ta. Khước từ sự định danh, định tính cho nhân vật, tẩy trắng hoàn toàn những gì dính líu tới nhân vật mà theo văn chương truyền thống đáng ra những điều đó phải hiển hiện đã đưa thế giới ngụy tạo trong văn chương của Nguyễn Vĩnh Nguyên trượt vào mê lộ của sự vắng mặt. Sự lấp lửng lưỡng nan trong hình tượng là những mê dụ nhưng cũng là những thách đố trong việc truy tìm ý niệm. Ở đây, những dạng thức nhân vật khác của văn chương Hậu hiện đại cũng góp mặt. Kiểu nhân vật đám đông trong “Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông”, hay kiểu nhân vật nghịch dị, hoang tưởng trong “Chiếc chìa khóa của người ăn từ điển”, “Chữ bay” là những minh chứng… Dấu vết của lối kết cấu vẫy gọi, kếu cấu liên văn bản cũng mang lại cho văn chương của tác giả này không khí của những siêu tiểu thuyết. Dĩ nhiên, liên văn bản là một trò chơi không phải ai cũng có thể tham dự được. Trên thế giới, những văn nhân cao tay và thành danh trong trò chơi liên văn bản như Umberto Eco, Robbe – Grillet, Italo Calvino, Cao Hành Kiện… là không nhiều. Công bằng mà nói thì văn nhân Việt vẫn chưa mấy ai thành công trong việc chắp nối, liên kết những mảng màu kiến thức khác nhau trong sáng tác của mình. Sự hỗn chứa nhiều loại kiến thức trong văn bản chưa tạo ra được một sức mạnh tổng lực của sự biểu đạt. Đó là một điều dễ hiểu bởi việc vượt thoát sự đeo bám của tư duy nghệ thuật tiền hiện đại là một điều khó khăn làm sao. Vẫn còn nhiều điều muốn nói về thi pháp của tập truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên, nhưng do dung lượng ngắn của tiểu luận, nên ở lưng chừng nhìn Nguyễn Vĩnh Nguyên, chúng tôi dừng lại sự chơi muốn như là chơi bất tận trong thế giới chữ Nguyễn Vĩnh Nguyên.

Khi văn chương là thế giới ngụy tạo, thế giới đi ra từ trong tâm thức của kiểu văn nhân thời mới thì tất nhiên việc tìm ra các mã nghệ thuật dung chứa ẩn ngầm trong tác phẩm không còn đơn giản như trước. Vì thế, người đọc phải có bản lĩnh và một cảm quan nghệ thuật sâu rộng trước khi can dự vào thế giới ngụy tạo của nhà văn, để mong sao, từ nay không còn có những tác phẩm nghệ thuật phải chết đi một cách oan uổng khi nó chưa kịp cử động đôi cánh của mình.

Trong cái nhìn đối sánh về mặt tư duy nghệ thuật thì văn chương Việt hiện nay tụt hậu khá xa so với sự phô diễn các lối chơi quái đản của văn chương và các lĩnh vực nghệ thuật đương đại khác trên thế giới. Nguyễn Vĩnh Nguyên với những tìm tòi, thể nghiệm trong thế giới chữ của mình có can dự được vào vĩnh cửu hay không còn chờ ở quy luật đào thải nghiệt ngã của thời gian và nghệ thuật. Nhưng một lần nữa, cần thiết phải khẳng định rằng ý thức cách tân, ý thức cần chết đi để một lần sống lại trong sáng tác của Nguyễn Vĩnh Nguyên luôn luôn là một điều đáng trân trọng.

(SH274/12-11)

 






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.

  • THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.

  • HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.

  • PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.

  • MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.

  • ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…

  • ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.

  • LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.

  • INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)

  • HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...”  Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

  • LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

  • LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.

  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!