Kẻ ngoại tình với văn chương

15:24 02/04/2010
PHẠM XUÂN HÙNG(Về cuốn Đọc văn - Tiểu luận - Phê bình của Phạm Phú Phong, NXB Thuận Hóa, 2008)

Nhà giáo Phạm Phú Phong - Ảnh: dhtonghophue

Sống nhiều năm ở Huế, là nhà giáo dạy văn chương bậc đại học nhưng tôi cứ nghĩ Phạm Phú Phong còn nhiều lắm chất nghệ sĩ và lãng tử của văn nhân xứ Quảng - người mà trong hình dung của tôi luôn thơ thẩn dọc cánh đồng văn chương, rồi từ đó nghiệm sinh những vẻ đẹp lặng lẽ ánh lên trong từng trang viết…

Cuốn Đọc văn của Phạm Phú Phong do NXB Thuận Hóa ấn hành cuối năm 2008 khá dày dặn, không chỉ bằng số lượng hơn 350 trang viết mà bằng cái cách anh trình bày, những cảm nhận mang tính thẩm mỹ và hàm lượng thông tin về các tác phẩm và nhà văn anh yêu mến. Ấn tượng đầu tiên với người đọc ở chỗ anh không phô diễn những kỹ thuật tân thời, những lý thuyết xám màu mê hoặc người yếu bóng vía mà bằng vào trái tim da diết cùng nhịp đập với các tác phẩm văn chương. Và cũng từ đó, chân dung các nhà văn, nhà thơ bỗng thật gần gũi với đời thường, theo cách mà họ đã chọn lựa để trang trải món nợ văn chương.

Tập sách ngoài phần Mở đầu mang hơi hướng hàn lâm, những trang sách còn lại chia thành 3 phần nối tiếp nhau như là cuộc hành trình của tác giả đến với các tác phẩm văn chương: “Đọc và Ghi”, “Đọc và Nghĩ”, “Phác thảo chân dung”. Hẳn nhiên, con đường từ “Ghi” đến “Nghĩ” và “Phác thảo chân dung” cũng chính là con đường mà Phạm Phú Phong định đặt và ứng xử theo cách của mình với các tác phẩm và tác giả văn chương.

Đọc từng trang viết của Phạm Phú Phong sẽ bắt gặp ở anh một thái độ trân trọng và yêu mến những trang văn - trang đời của từng tác phẩm và tác giả. Không lan man, không gò ép, với mỗi nhà văn anh chọn cho mình một tác phẩm tiêu biểu theo cách cảm và hiểu của anh (như với nhà văn Thanh Tịnh đó là tập truyện ngắn Quê me, với nhà thơ Lưu Trọng Lư là tập hồi ký Nửa đêm sực tỉnh, tập bút ký Người Sài Gòn của nhà văn Sơn Nam…), để từ đó có những ghi chép nghiêm túc và thấm đẫm tinh thần nhân văn. Tôi nghĩ, Phạm Phú Phong phải yêu mến lắm các nhà văn mới có thể đồng hành cùng họ trên từng trang viết. Trong phần “Đọc và Ghi” với mỗi tác giả hoặc tác phẩm văn chương anh chỉ viết trên dưới ngàn chữ, nhưng chỉ trong chừng đó giấy mực anh đã kịp ghi lại những nhận xét khá chính xác và tinh tế. Chẳng hạn với Thanh Tịnh, từ một thế giới nhân vật là “những con người nghèo khổ hiền lành, chất phác, đôn hậu, dịu dàng, chịu đựng…” trong tập truyện ngắn Quê mẹ, Phạm Phú Phong đã thấy “vóc dáng tâm hồn nhân ái của ông vẫn còn tỏa bóng mát chở che cho bao mảnh đời nghèo khó hơn nửa thế kỷ qua và nhiều thế hệ sau”. Với tập bút ký Người Sài Gòn ăm ắp các chi tiết về con người và lịch sử vùng đất Sài Gòn - Gia Định, Đồng Nai - Bến Nghé và cả vùng Nam Bộ, nhà văn Sơn Nam trong mắt Phạm Phú Phong đã trở thành “bộ từ điển sống, tác phẩm của ông như một bộ bách khoa toàn thư về đời sống của mảnh đất và con người Nam Bộ”... Phạm Phú Phong là người đọc nhiều, cả về số lượng tác giả lẫn thể loại vì thế những ghi chép của anh trải rộng trên nhiều địa hạt. Từ những tác phẩm văn xuôi dài hơi như tiểu thuyết, hồi ký (Bản di chúc của cỏ lau của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Thời tôi mặc áo lính của Nguyễn Quang Hà, Cát bụi chân ai của Tô Hoài, Nửa đêm sực tỉnh của Lưu Trọng Lư…) đến các tập truyện ngắn (Quê mẹ của Thanh Tịnh, Con mèo Foujita của Nguyễn Quang Sáng…), từ những tập tản văn (Thú ăn chơi người Hà Nội, Hương sắc bốn mùa, Ngàn mùa hoa của Băng Sơn, Tản văn của Hoàng Minh Thắng”…) đến các phóng sự giàu chất văn học (Mọi linh hồn đều được đưa tiễn của Xuân Ba). Hơn thế nữa, trong sự đọc nhiều của anh, Phạm Phú Phong chọn cho mình những tác giả, tác phẩm mà anh thấy cần để viết, cần phải viết. Điều anh quan tâm là cái gì còn lại sau những trang viết và anh cũng đã tự nhận “không phải là người có thói quen phân chia văn học theo khái niệm, các phạm trù có sẵn, hoặc theo hệ thống đề tài, hệ thống thể loại…” (trang 56). Chính nhờ tư duy lãng tử ấy mà anh không nề hà buông bút dù đó là nhà văn lão thành Nguyễn Văn Bổng hay cây bút trẻ Hoàng Dạ Thi, từ một cuộc thi truyện ngắn trên báo Văn nghệ đến những tác phẩm thường được xếp vào thể loại cận văn học như Nhật ký (Nhật ký Tây tiến viễn chinh của Trần Duy Chiến).

Nếu “Đọc và Ghi” dừng lại như những điểm xuyết về một tác phẩm cụ thể thì ở phần “Đọc và Nghĩ” Phạm Phú Phong đã có những giọt mồ hôi của sự đào bới các tầng vỉa của hệ thống tác phẩm và tác giả. Đó là một Vũ Trọng Phụng xứng đáng phong vương phóng sự Bắc kỳ đến Thạch Lam với thi pháp truyện ngắn đặc sắc, một Thái Bá Lợi với tư duy tiểu thuyết hiện đại đến Phạm Thị Hoài với mạch truyện ngắn độc đáo trong dòng chảy văn chương Việt thời đổi mới… Chiếm dung lượng một phần ba tập sách, hơn 100 trang viết nhưng Phạm Phú Phong đã nghiền ngẫm và khá nặng lòng với các tác giả và những vấn đề anh quan tâm. Điểm nổi bật và xuyên suốt phần này là hệ thống tác phẩm của mỗi nhà văn được anh soi chiếu dưới góc nhìn thi pháp học. Từ xuất phát điểm “thi pháp là mỹ học của nghệ thuật ngôn từ” Phạm Phú Phong không chỉ tiếp cận tác phẩm ở các góc độ như nội dung đề tài, quan điểm nghệ thuật, tư duy sáng tạo… mà còn mổ xẻ, phân tích tác phẩm ở nhiều hệ quy chiếu khác như hệ thống nhân vật, giọng điệu ngôn ngữ, cốt truyện và kết cấu… Trong phần “Đọc và Nghĩ”, 9 nhà văn được Phạm Phú Phong chọn viết có người đã định vị trong dòng chảy lịch sử văn học chính thống (Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Thạch Lam), có người đang nổi tiếng trên văn đàn (Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Thái Bá Lợi), có người trẻ hoặc đang âm thầm nuôi dưỡng một bút lực (Thuận, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Việt).

Với nhà văn, quá trình sáng tạo nghệ thuật và mỗi tác phẩm vừa là sự thăng hoa, vừa là sự không lặp lại trên nền tảng của quan điểm nghệ thuật và phong cách sáng tạo độc đáo của riêng mình. Bằng vào sự khảo sát, nghiền ngẫm qua tác phẩm, hệ thống tác phẩm, Phạm Phú Phong đã có những đánh giá sắc sảo về các nhà văn, qua đó chỉ ra những yếu tố nền tảng tạo ra tài năng và dấu ấn của nhà văn trong lòng độc giả. Chẳng hạn, nghĩ về Vua phóng sự Bắc kỳ Vũ Trọng Phụng, anh cho rằng nhà văn này đã có công khai sinh ra thể tài kép phóng sự - tiểu thuyết (“Cạm bẫy người”, “Kỹ nghệ lấy Tây”…) và cùng với thể tài này là quan điểm nghệ thuật hiện thực đến tận cùng đã đưa Vũ Trọng Phụng trở thành tên tuổi sáng giá. Với Phạm Thị Hoài, dựa trên lập ngôn của chính nhà văn viết như một phép ứng xử toàn diện…, Phạm Phú Phong đã chỉ ra một số yếu tố đặc trưng của thế giới nghệ thuật, trong tư duy và ngôn ngữ văn chương của nữ văn sĩ này, đó là một thứ “hiện thực tâm trạng” được thể hiện bằng sự “đánh vật với ngôn ngữ, là quá trình hiện đại hóa tiếng Việt, kết hợp ngôn ngữ dân gian với hiện đại…”. Có thể nói, trong phần “Đọc và Nghĩ”, các nhà văn đã được Phạm Phú Phong tiếp cận theo nhiều hướng, đó là tư duy tiểu thuyết của Thái Bá Lợi, giọng điệu văn chương của Nguyễn Huy Thiệp, thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Thuận và… cả cách tiếp cận từ những điều người khác dễ dàng bỏ qua như lời đề từ trong các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.

Tuy nhiên, với mỗi nhà văn, Phạm Phú Phong không chỉ có những đánh giá thiện chí mà còn mổ xẻ những bất cập, những khía cạnh hạn chế trong tư duy nghệ thuật và thi pháp của các tác giả. Dù rất khen ngợi văn tài của Phạm Thị Hoài, anh vẫn cho rằng trong một số tác phẩm của chính nhà văn này đã không có sự thành công trong việc cách tân ngôn ngữ văn chương. Cũng như vậy, với nhà văn Thuận, anh cho rằng sáng tác của chị, với các tiểu thuyết có phần mở đầu “thường quá nặng nề, khó đọc” và như thế là “tự giới hạn phạm vi người đọc trong một tầng lớp nhất định, mất đi tính đại chúng của văn học”.

Từ Ghi đến Nghĩ, và sau đó, ở cuối tập tiểu luận phê bình Đọc văn Phạm Phú Phong đã dành khoảng một phần ba số trang để phác thảo chân dung các nhà văn. Trên bình diện rộng hơn và cách tiếp cận không dừng lại ở tác phẩm, anh đã đi sâu nghiên cứu tiểu sử, quá trình hình thành tài năng văn học, mối quan hệ giữa nhà văn với thời cuộc… để tạo dựng nên chân dung các nhà văn. Bằng giọng văn điềm đạm, tiết chế, khả năng thẩm thấu văn chương mạnh mẽ, anh đã góp thêm cho người đọc một cách nhìn ra gương mặt của các nhà văn qua cuộc đời và tác phẩm của họ.

Không đại ngôn và Phạm Phú Phong chỉ khiêm tốn nhận những gì mình viết ra chỉ là phác thảo chân dung song với những gì anh trình bày khiến người đọc có cảm giác các nhà văn thật gần gũi, tài năng của họ bắt đầu từ những trải nghiệm cuộc sống và tác phẩm của họ là sự lao động cật lực và nghiêm túc với chữ nghĩa. Dĩ nhiên, không ai và không thể vẽ nổi chân dung một con người, một nhà văn cụ thể chỉ bằng trang giấy và con chữ, nhưng qua đó, Phạm Phú Phong đã thành công khi có những ký họa sinh động về các nhà văn mà anh đã chọn để phác thảo: Bình Nguyên Lộc, Võ Hồng, Nguyễn Minh Châu, Chu Cẩm Phong, Y Điêng, Tô Nhuận Vỹ, Cao Duy Thảo, Thái Ngọc San và Thế Vũ.

Trung thành với nguyên tắc ký họa trong nghệ thuật hội họa, Phạm Phú Phong chọn phóng bút vào phần hồn, phần tính cách đặc sắc nhất của mỗi nhà văn bên cạnh những nét điểm xuyết chọn lọc khá kiệm chữ song vẫn làm nổi lên chân dung các nhà văn theo cảm nhận của anh. Với từng chân dung, Phạm Phú Phong có những cách tiếp cận khác nhau, có nhà văn anh bắt đầu từ một nhận xét chung về cả thế hệ nhà văn cùng thời, cùng không gian cầm bút, có nhà văn anh bắt đầu từ miền quê sáng tác, lại có nhà văn anh bắt đầu từ ý thức và cảm hứng sáng tạo… Những cách tiếp cận ấy cho phép Phạm Phú Phong lựa chọn bảng màu và chất liệu cần thiết để phác thảo các chân dung. Những cách tiếp cận dưới hình thức là những nhận xét tuy ngắn ngủi song đã cho thấy nét sắc sảo của Phạm Phú Phong khi bắt nhịp với cuộc đời và tác phẩm các nhà văn. Chẳng hạn với Bình Nguyên Lộc anh cho rằng đó là nhà văn cùng thời với một thế hệ nhà văn ở miền Nam trước đây như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam… và đặc điểm tương đối phổ biến đó là những nhà văn hóa mà tác phẩm của họ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hóa. Với Nguyễn Minh Châu, anh cho rằng số phận văn chương của nhà văn này gắn liền với mảnh đất Trị - Thiên và người lính để từ đó hình thành một bút lực mạnh mẽ trước hiện thực cuộc đời. Cao Duy Thảo thì lại khác, anh nhận xét đó là nhà văn “không thuộc diện các nhà văn cầm bút đi về phía chiến tranh mà thuộc thế hệ những nhà văn từ chiến tranh đi về phía văn học…”. Từ những nhận xét mang sức khái quát cao, Phạm Phú Phong đi vào tác phẩm và phác thảo nên chân dung mỗi nhà văn. Ở đây, chưa thể nói rằng, Phạm Phú Phong thành công ở tất cả những phác thảo nhưng chí ít các nhà văn qua trang viết của anh đã hiện lên như một cá thể sáng tạo độc lập, không lặp lại và một vị trí nhất định trong ngôi nhà văn chương Việt. Đặc biệt và dường như với những nhà văn nào anh yêu mến thì chân dung anh vẽ ra càng dày dặn, ngồn ngộn ý thức tìm tòi, khám phá. Như với Nguyễn Minh Châu, qua hệ thống tác phẩm, Phạm Phú Phong đã bóc tách và cho rằng toàn bộ văn nghiệp của ông thể hiện ít nhất 3 Nguyễn Minh Châu, đó là một Nguyễn Minh Châu - “người lính mang trong mình tình yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, hòa nhập cái tôi riêng rẽ của mình trong cộng đồng, trong sản xuất và trong chiến đấu ở hậu phương (Cửa sông), hăng hái nhập vào đoàn quân ra trận mặt đối mặt với kẻ thù trong trận chiến đấu một mất một còn (Những vùng trời khác nhau, Dấu chân người lính)”, một Nguyễn Minh Châu là “người lính trở về sau ngày toàn thắng, mở ra tấm lòng bao dung, nhân đạo của người chiến thắng”, “biết nhìn nhận đâu là kẻ thù, đâu là nhân dân và sẵn sàng tha thứ để hàn gắn vết thương chiến tranh”, “quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, của con người với bao nhu cầu phức tạp của nó (Những người đi từ trong rừng ra)” và một Nguyễn Minh Châu với “vai trò tích cực xã hội của mỗi cá nhân sau khi tách rời khỏi cộng đồng”, “tự nhận thức và thái độ dấn thân lặng lẽ”.

Sẽ là thiếu sót nếu không nói thêm rằng phần cuối cùng của cuốn Đọc văn Phạm Phú Phong đã có một Lời kết mà người đọc có thể xem đó là Lời bạt của chính tác giả. Lời kết có tên “Người ta đến với văn chương như một cuộc ngoại tình”. Một chút nghiền ngẫm, một thoáng ưu tư, một nỗi sợ mơ hồ, một ám ảnh day dứt với chữ nghĩa khiến con người lãng tử trong chân dung nhà giáo Phạm Phú Phong thốt lên “Riêng tôi, cũng là kẻ có đôi lần ngoại tình với nhiều tác phẩm, tác giả hoặc nhân vật (nam có, nữ có, già có, trẻ có), đã từng ép mình lên từng dòng chữ để thấy cái ma lực âm thầm và rát bỏng của văn chương…”.

Thưa rằng với tác giả, nhà giáo Phạm Phú Phong, không ít người đọc trong đó có tôi đã từng thất vọng vì những tác phẩm, tác giả mà những trang văn, trang đời của họ nhạt nhẽo bởi thứ tình yêu - hôn nhân giữa con người với văn chương bị đóng khung, căng cứng trong thứ luân lý giả vờ và nhạt nhẽo. Mong anh có thêm những cuộc ngoại tình, những cuộc ngoại tình chính chuyên theo cách nói của anh để người đọc có thêm những trang viết mang ma lực âm thầm và rát bỏng của văn chương.

Đà Nẵng sau bão số 9 năm 2009
P.X.H
(253/03-10)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)