Kỷ niệm ngày Thương binh Liệt sĩ 27 - 7
DO YÊN
Đoàn cựu chiến binh chiến trường Trị – Thiên thăm bia tưởng niệm K8 tại thôn Phước Yên, xã Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế
Cựu chiến binh (CCB) Đỗ Bình Minh (Thanh Hóa) trong bức thư đề ngày 28 tháng 10 năm 2014 đã viết: “Những chiến công vang dội và sự hy sinh quá lớn của cán bộ chiến sĩ K8. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước năm xưa đã lùi xa và mấy ai còn nhớ đến. Nhưng chúng tôi CCB K8 vẫn còn nguyên vẹn những chiến thắng, sự hy sinh trong các trận đánh trên các chiến trường...
Để xứng đáng là người lính K8 và ấm lòng những đồng đội đã hy sinh chúng tôi sẵn sáng lên đường sát cành cùng đơn vị khi có lệnh của đoàn Gio An”.
Gần 50 năm sau trận chiến oanh liệt giữa một tiểu đoàn Quân giải phóng quần nhau với 7 tiểu đoàn Mỹ - Việt Nam Cộng hòa suốt cả tuần lễ, mấy ai biết đến phiên hiệu K8. Họ đã chiến đấu với lực lượng địch mạnh hơn cả chục lần, chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, chấp nhận hy sinh không để lọt vào tay địch. Hơn 500 cán bộ, chiến sĩ K8 và 200 bộ đội địa phương K10 đã hy sinh anh dũng trên trận địa Phước Yên.
Chúng tôi là K8
K8 là phiên hiệu của đơn vị nào? Tại sao họ phải tử chiến ở Phước Yên và tổn thất nhiều như thế? Nhiều người đã đặt ra câu hỏi này.
K8, tức là Tiểu đoàn 8 được thành lập tháng 9/1954, trước khi tập kết ra Bắc theo Nghị quyết của Liên khu ủy 5, họp ngày 27 và 28/71954. Trong quá trình chiến đấu, tiểu đoàn đã nhiều lần thay đổi phiên hiệu đơn vị, nằm trong đội hình chiến đấu của nhiều quân khu, quân đoàn và mặt trận. Cuối năm 1967, Tiểu đoàn 8 được biên chế về Trung đoàn 3 (Đoàn Gio An anh hùng như bức thư của CCB Đỗ Bình Minh), Sư đoàn 324, Quân khu IV và được điều động vào chiến trường Trị Thiên Huế, trực thuộc Quân khu Trị Thiên. CCB Đỗ Bình Minh viết: “Nói đến K8 là nói đến Pu chăm xi - căn cứ Mường Kheo trên đất bạn (Lào) hay tiếng đàn Ta lư mà tiếng trống trận trên đất Gio An, Quảng Trị đã làm cho quân thù khiếp sợ” .
Từ năm 1969, trung đoàn 3 được điều động vào chiến trường Quân khu V. Tiểu đoàn K8, nay là Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 38, Sư đoàn 2, Quân khu V.
Những câu chuyện về K8 được các CCB như Nguyễn Đức Thuận (sinh năm 1943, quê Quảng Bình, hiện trú tại Huế), Lê Hà Học (SN 1947, quê Thanh Hóa, hiện trú tại phường 3, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh), Nguyễn Văn Thắng (Bà Rịa - Vũng Tàu), Dương Bá Nuôi - cán bộ tác chiến nay còn sống tại thành phố Huế, xạ thủ B41 Đỗ Xuân Cường... kể lại với báo giới và tự viết bài như CCB Nguyễn Văn Thắng với bài viết “K8 bi tráng và anh hùng”.
CCB Nguyễn Đức Thuận, sinh năm 1943, quê ở xã Hưng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông nhập ngũ ngày 12/10/1963. Năm 1966 được kết nạp Đảng tại Mặt trận Đường 9-B5. Ông đã được tặng 2 Huân chương Chiến công hạng I và hạng II; 6 Bằng khen của Trung đoàn và nhiều danh hiệu khác. Vào dịp Xuân 1968, ông tham gia Mặt trận Huế và sau đó hoạt động ở Quảng Điền, tham gia trận đánh Phước Yên. Trận đánh ấy, ông Thuận bị thương, nhờ được nhân dân chở che, chăm sóc nên không sa vào tay giặc. Ông được gia đình nữ đảng viên mật Nguyễn Thị Niềm đưa xuống hầm bí mật chăm sóc, điều trị. Sau đó, khi lành vết thương, qua liên lạc, ông tiếp tục hoạt động ở huyện đội Quảng Điền.Và ông cùng những người còn sống chính là nhân chứng của trận chiến đẫm máu năm xưa.
Còn CCB Lê Hà Học (SN 1947, quê Thanh Hóa, hiện trú tại phường 3, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh) đứng lặng hồi lâu trước dòng sông Bồ, đôi mắt ông mờ đi trước khói hương nghi ngút. Trận ấy ông bị thương nặng, bị địch bắt lại cùng với một số đồng đội. Sau 5 ngày điều trị tại Bệnh viện Huế, chúng đưa ra giam tại nhà tù Phú Quốc. Trong hồ sơ lưu trữ tại nhà tù Phú Quốc, những người lính K8 bị khép vào tội “xâm nhập bất hợp pháp vào lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa”. Khi chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, miền Nam hoàn toàn giải phóng, những chiến sĩ K8 cùng nhiều tù binh tại nhà tù Phú Quốc được giải thoát. Những người sống sót năm xưa giờ tứ tán khắp nơi. Người mất, người về quê, người lưu lạc đâu không rõ. Hơn nửa thế kỷ rồi nhưng như CCB Lê Hà Học chỉ gặp lại được 3 người là đồng đội năm xưa. Ông tâm sự: “Giá như, một lần nào đó, những người sống sót có thể về đây thắp cho anh em ngã xuống ở Phước Yên một nén hương, để những người nằm lại dưới dòng sông Bồ không phải chạnh lòng…”.
![]() |
Cựu chiến binh Lê Hà Học thắp hương tưởng nhớ các đồng đội ngã xuống trên quê hương Phước Yên |
Đặc biệt nhất là CCB Đỗ Xuân Cường được cho là hy sinh trong trận Phước Yên, đã quay về gặp đồng đội năm 2013. CCB Ngô Quang Quy - người lính trong nhóm cảm tử mở đường máu cho đơn vị hiện sống ở Thanh Hóa bất ngờ gặp lại xạ thủ B41 Đỗ Xuân Cường là đồng đội do tự tay mình chôn cất, không tin điều ấy là sự thật. CCB Đỗ Xuân Cường trong trận đó là xạ thủ B41, thuộc E3, F324. Trong trận Phước Yên, Đỗ Xuân Cường khi ấy tròn 19 tuổi, xung phong làm cảm tử mở đường máu phá vây cho đơn vị, được truy điệu sống và được đồng đội chôn cất sau khi hy sinh. Theo ông kể lại, khi mở đường máu ông bị bắn trọng thương rồi được địch bắt giữ, cứu chữa. Tháng 5/1969, người tù Đỗ Xuân Cường bị giải đến nhà lao Phú Quốc.
Tử chiến ở Phước Yên: “Thề chiến đấu hy sinh đến giọt máu cuối cùng.”
Xuân 68, từ Mặt trận Đường 9, Sư đoàn 324 được lệnh cử 2 Trung đoàn là E1 và E3 tăng cường cho mặt trận Huế. Sau 1 tuần hành quân, mãi đến ngày 19/2, K8 mới có mặt ở Huế, chủ yếu ở Thành Nội và tham gia giữ cửa An Hòa. Đến ngày 23/2 rút khỏi Huế về đóng quân ở vùng Khe Trái (Hương Trà). Tuy nhiên, tại đây, K8 bị B52 dội bom làm nhiều cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Thế nhưng chưa đầy một tháng sau, lại được lệnh: Tổ chức cho K8 luồn sâu xuống vùng đông huyện Quảng Điền, phối hợp với lực lượng địa phương củng cố chính quyền cách mạng ở đồng bằng, đồng thời kéo giãn địch ra, tạo điều kiện cho tổng tấn công nổi dậy đợt II.
Hành quân trong bối cảnh như vậy nên K8 gặp vô vàn hiểm nguy. Ngày 20/3, rời hậu cứ Khe Trái, nhưng mãi đến ngày 26/3, K8 mới có mặt ở làng Thanh Lương (nay thuộc phường Hương Xuân, thị xã Hương Trà). Sau 2 ngày đóng quân, Mỹ phát hiện được liền huy động máy bay, xe tăng vừa ném bom vừa rải quân bao vây. Cuộc giao tranh kéo dài 5 ngày, mãi đến đêm 4/4, K8 mới mở được đường máu. Vào lúc này, trên hướng của Đại đội 2, trong khi cán bộ đại đội và phái viên cấp trên đang họp bàn tìm cách đối phó với địch, không khí cuộc họp vô cùng căng thẳng, thì xạ thủ B41 Đỗ Xuân Cường bước vào trình bày phương án mở đường máu cho đơn vị rút ra ngoài. Muốn thực hiện phương án đó, phải có một tổ từ 2 đến 3 người xung phong vượt qua vòng vây quân địch. Nghe Cường trình bày, cả cuộc họp lặng đi. Xét thấy không còn cách nào tốt hơn nên mọi người chấp thuận phương án của Cường. Hai chiến sĩ Đỗ Xuân Cường và Ngô Quang Quy xung phong thực hiện. Tất cả đạn B41 của đại đội gom lại còn được 14 quả, chất đầy hai sọt của Cường và Quy. Cường xông ra giữa vòng vây quân thù. Theo sau Cường là Quy với giỏ đạn trên lưng. Trên đường mở đường máu từ Phước Yên qua Quốc lộ 1A lên Hương Sơn, Hương Thạnh, Cường đã bắn 14 quả đạn B41 diệt nhiều thiết giáp và bộ binh địch, thu hút địch về phía mình. Tốp mở đường máu vừa phản công vừa rút về địa bàn thôn An Ninh Thượng (nay thuộc phường Hương Long, thành phố Huế). Chớp thời cơ đó, lực lượng còn lại của K8 tổ chức phá vòng vây.
*
Sau trận vây ở Thanh Lương, K8 cứ thế tiếp tục chuyển quân và rạng sáng ngày 26/4 thì tới làng Phước Yên. Phước Yên là một ngôi làng nằm ven sông Bồ, một thời là thủ phủ của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, cách thành phố Huế khoảng 15km về phía đông bắc (thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền). Biết K8 đang xây dựng phong trào cách mạng trong nhân dân, bọn địch tìm mọi cách để phát hiện dấu vết của đơn vị. Thông tin chính xác từ bọn tề điệp báo về: “K8 đang ở Phước Yên” đã làm cho địch hí hửng. Chúng thực hiện một kế hoạch bủa vây, ép K8 đầu hàng.
Trong khi đang đào công sự trong sáng 26/4, bất ngờ địch đổ quân. Chúng huy động 2 Tiểu đoàn Kỵ binh bay của Mỹ cùng 5 Tiểu đoàn của Sư đoàn I Bộ binh Việt Nam Cộng hòa, được xe tăng và máy bay yểm trợ quyết “tiêu trừ cho được Cộng quân”.
Cuối tháng 4, cánh đồng làng Phước Yên trơ gốc rạ, tứ bề trống hoác. Địch tiến hành bao vây, canh giữ các chốt và dùng giây kẽm gai để bịt những nơi không có người canh giữ. Sau mỗi đợt không kích, pháo kích, địch dùng trực thăng cho loa phóng thanh kêu gọi buộc bộ đội ta quy hàng. Đáp lại là từng loạt AK, từng quả đạn cối. Cuối cùng, địch tập trung binh lực tấn công. Bom đạn xuống làng Phước Yên với mật độ dày đặc. Cán bộ, chiến sĩ K8 đã quần nhau với 7 tiểu đoàn địch có hỏa lực mạnh hơn gấp hàng chục lần, đã tiêu diệt hơn 200 tên Mỹ. Tuy nhiên, K8 cũng bị tổn thất nặng nề, hơn hai phần ba quân số bị thương vong.
K8 lợi dụng những bờ tre, nương các bờ tường tổ chức kháng cự. Nhận tin K8 bị vây, Quân khu cử K1 của Trung đoàn I do tiểu đoàn trưởng Võ Chót, sau là Thiếu tướng, phó Tư lệnh Quân khu IV chỉ huy về đánh giải vây. Nhưng do không phối hợp được trong - ngoài nên đến khuya phải rút.
Không thể khoanh tay chịu chết, Tham mưu trưởng E3 tăng cường là ông Lương đã cùng chỉ huy K8, gồm: Tiểu đoàn trưởng Viễn, Tiểu đoàn phó Khải, Chính trị viên Tiến, Trợ lý hậu cần Tiểu đoàn Sinh… cùng các cán bộ đại đội cùng bàn và tìm cách rút. Quân số K8 có đến gần 600 quân là do được Trung đoàn 3 tăng cường thêm B trinh sát, Đội phẫu, Đội thông tin, Sở chỉ huy nhẹ của Trung đoàn do ông Lương chỉ huy.
Khuya 29/4, bằng tinh thần quả cảm, cán bộ, chiến sĩ K8 đã tổ chức chiến đấu và mở đường máu vượt qua vòng vây. “Thề chiến đấu hy sinh đến giọt máu cuối cùng”, trong vòng vây bom đạn tầng tầng lớp lớp của kẻ thù xâm lược, K8 đã giữ trọn lời thề. Dàn quân ra cánh đồng là một điều bất lợi trong chiến đấu khi đối đầu với kẻ địch đông đảo cùng sự hỗ trợ của máy bay, xe tăng, trọng pháo. Nhưng để tránh những tổn thất cho dân làng, K8 đã chấp nhận hứng chịu hy sinh là điều được lường trước.
Dù đã diệt hơn 200 lính Mỹ nhưng sau 5 ngày giao tranh, K8 đã bị tổn thất nặng nề. Điểm lại, số sống sót chỉ còn đúng 46 người, trong đó có Tiểu đoàn trưởng và cán bộ tác chiến Quân khu.
Phước Yên - đó là nỗi đau của những người lính K8 còn sống sót. Nhưng Phước Yên cũng là biểu tượng cho tinh thần quật cường, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng của Tiểu đoàn 8.
Đề xuất xây dựng khu chiến tích K8
Trận chiến trên cánh đồng Phước Yên những ngày tháng 4/1968 của K8 là một bản bi hùng ca, nhưng chưa được nhiều người biết đến.
Sau khi thành lập Ban liên lạc, những cán bộ chiến sĩ của K8 năm xưa thường tổ chức gặp gỡ. Và họ thống nhất, chọn ngày 28/4 hàng năm làm ngày giỗ chung cho trên 500 đồng đội đã hy sinh ở Phước Yên. Vào năm 2007, một đài tưởng niệm do Cựu chiến binh K8, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân huyện Quảng Điền, Bộ Tư lệnh Quân khu IV góp sức dựng lên ngay trên chính vị trí mở đường cho K8 thoát khỏi vòng vây đẫm máu. Những nhát cuốc vỡ đất đầu tiên cho một công trình đã phát lộ những hài cốt liệt sĩ. Và đến một ngày tháng 5/2011, trong khi thi công công trình giao thông nội đồng tại Đập Hóp, cánh đồng Phước Yên, cách đài tưởng niệm không xa, công nhân thi công công trình đã phát hiện thêm nhiều hài cốt liệt sĩ của K8. Một số nhân chứng cho biết dáng hình của các liệt sĩ hy sinh vẫn trong tư thế không buông tay súng. Tin tức này chấn động nhân dân và chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế. Đến ngày 2/6/2011, Tỉnh ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức lễ truy điệu, an táng 29 hài cốt anh hùng liệt sĩ hy sinh trong trận Phước Yên tại Đền tưởng niệm liệt sĩ K8, K10 - thôn Phước Yên, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền. Tại lễ truy điệu, các đại biểu đã dâng hương, dâng hoa và tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Sau lễ truy điệu, 29 hài cốt liệt sĩ đã được đưa về an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ Hương Điền.
Tại sao một tiểu đoàn cảm tử, với bao chiến tích cùng trận huyết chiến bi hùng ở làng Phước Yên như thế sao vẫn chưa được nhiều người biết đến và vinh danh? Còn biết bao nhiêu chiến sĩ K8 đã hy sinh trong trận chiến đấu ấy? Hài cốt các anh, những ai đã tìm thấy, những ai vẫn còn nằm trong lòng Đất Mẹ?... Nhiều CCB nghẹn ngào cho biết còn có những người nằm dưới sông Bồ, làm sao quy tập được?
Nhiều ý kiến cho rằng dù đã có một đài tưởng niệm được xây dựng nhưng để xứng tầm với trang sử bi hùng trong đấu tranh giữ nước, ở đây cần được xây dựng một khu chiến tích lịch sử đấu tranh cách mạng được xếp hạng và đặc biệt hơn việc tìm kiếm, quy tập hài cốt các liệt sĩ hiện còn nằm lại rất trên cánh đồng Phước Yên. Đây cũng là tâm nguyện của nhiều cựu chiến binh nói chung và người dân. Mong muốn của Đại tá Nguyễn Đức Thuận, một chiến sĩ của K8 may mắn còn sống xót sau trận chiến mà còn là nguyện vọng cháy bỏng của những gia đình liệt sĩ, CCB K8, cũng như chính quyền, nhân dân huyện Quảng Điền và Trung đoàn 38 anh hùng hôm nay.
Ngày về thăm lại trận địa xưa, những người lính K8 ngày nào vẫn sôi trong mình khí thế chiến đấu: “Chúng tôi, những người lính còn sót lại sau cuộc chiến với tuổi đã trên dưới 70, tuy sức khỏe hạn chế nhưng tinh thần vẫn hăng hái như 50 năm về trước, quyết vượt Trường Sơn đi đánh Mỹ”.
D.Y
(TCSH341/07-2017)
............................................
(Bài viết được tổng hợp từ các bài báo của các tác giả Trịnh Văn Dũng, Phạm Hữu Thu, Hoàng Lam lời kể của các CCB Nguyễn Đức Thuận, Đỗ Bình Minh, Lê Hà Học, Đỗ Xuân Cường…).
SONG CẦM
Bút ký
Với tôi, nước Nhật không những không xa lạ mà còn rất gần gũi. Tuy vậy, tám năm ở Nhật trước đây chưa phải là dài lắm để tôi đủ thời gian và cơ hội trải nghiệm tất cả.
PHÙNG SƠN
Truyện ký
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Chúng tôi về Điền Lộc vào một ngày tháng năm, nắng hực trảng cát hun hút trải dài mùa biển.
NGUYỄN PHƯƠNG ANH
LGT: Chu kỳ biến đổi khí hậu khiến thời tiết Huế mấy năm gần đây thay đổi rõ rệt. Huế ít lụt hẳn đi, thậm chí lụt cũng thay đổi chu kỳ lụt, ai đời như năm nay, lụt (tiểu mãn) vào tháng hai ta.
Lụt Huế thay ngày tháng năm, nhưng ký ức thì khó phai mờ, như tùy bút dưới đây…
HÀ LINH
1.
Con đường xa tắp. Chuyến đi xuất phát với lòng tin nơi đến là cuộc hành trình từ bỏ hạnh phúc con người.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Bút ký
Ngắm những ruộng bậc thang chín vàng rực rỡ cả thung lũng, ít ai nghĩ rằng cái tên Mù Cang Chải theo tiếng người H’Mông có nghĩa là làng Cây Khô.
Lời người sưu tầm: Có những người xuất hiện với tác phẩm đầu tay như một ánh chớp, gây xôn xao và hâm mộ trong bạn đọc một thời nhưng rồi sau đó, mặc dầu cũng có một sự nghiệp văn học, có hàng bao nhiêu trăn trở tìm tòi, rồi cũng có dăm bảy, thậm chí hàng chục tác phẩm tiếp theo nhưng không sao tìm thấy được sự khởi sắc sâu đậm như tác phẩm ban đầu.
HÀ KHÁNH LINH
Bút ký
Trường được thành lập từ năm 1963.
Thầy và trò lần lượt ngã xuống trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đến nay chỉ còn sót lại hơn một nửa, tìm cách liên lạc với nhau mãi mới thực hiện được một chuyến trở về tìm lại dấu tích mái trường xưa - giờ đã nằm sâu vào lãnh thổ nước Lào...
PHƯƠNG ANH
Tôi thường chọn cho mình những phút giây lặng lẽ, bình yên của những ngày vào thu ở một góc quán vắng để ngắm nhìn dòng xe xuôi ngược, mỗi chuyến xe là một cuộc đi.
VÕ NGỌC LAN
Tôi vẫn thường thắc mắc không hiểu có ai sống với nhau tròn trăm năm không? Bởi tuổi của đời người mong manh, chẳng ai chờ ai, rồi lại nghĩ mình có ngộ nhận chữ nghĩa trăm năm đó không?
PHI TÂN
Bút ký
Phá Tam Giang trải dài theo hướng từ Bắc vào Nam, song song với bờ biển từ huyện Phong Điền cho đến huyện Phú Lộc (Thừa Thiên Huế), được chảy vào bởi ba con sông lớn là sông Ô Lâu, sông Bồ và sông Hương.
NGUYỄN THẾ TƯỜNG
Truyện ký
"Kiến Giang nước chảy một dòng
Bên bồi bên lở đau lòng hay chưa"
(Ru con Lệ Thủy)
VI THÙY LINH
Trong các phần của cơ thể con người, tóc thuộc về ngoại hình mà câu chuyện tóc liên quan, ảnh hưởng tới nhiều mặt, từ mỗi con người tới lịch sử nghệ thuật, xã hội. Tóc rụng hằng ngày nhưng mấy ai thương tóc. Đời tóc đi qua những đời người.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Bút ký
Bạch Mã có mối lương duyên thuần khiết với mây, đến cái tên gọi cũng bắt nguồn từ những áng mây quanh năm quần vũ trên chóp núi.
NGUYỄN NGỌC PHÚ
Bút ký
Trong chuyến hành hương trên đất Phật chúng tôi đã đến ba vùng đất quan trọng liên quan đến cuộc đời Đức Phật, ba địa danh nằm trên đất Ấn Độ đó là Boddhgaya nơi Đức Phật sau bao thăng trầm trong cuộc tìm kiến chân lý đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ Đề và giác ngộ.
PHƯƠNG ANH
Tôi đã từng nhìn vào ánh mắt của những người đàn bà, những người mẹ; những đôi mắt luôn ẩn giấu những câu hỏi: Hạnh phúc là gì? Bởi cuộc đời họ dường như chẳng có lấy được một phút giây thanh thản để tự hỏi rằng: Mình là ai?
NGUYỄN VĂN UÔNG
Tết về là gói bánh tét. Thế mà bây giờ cái mặc nhiên ấy không còn là mặc nhiên. Cái ông già tuổi đã cổ lai hy cứ nhớ vẩn vơ chuyện ấy mỗi khi Tết về.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Đi qua miền sơn cước lớp lớp mây mù giăng trên những đầu núi, vượt đèo A Co, những cơn gió đông của A Lưới heo hút, lạnh băng xộc từ những hẻm núi sâu táp sa mặt mũi.
LÊ THỊ MÂY
Bút ký
O tôi đã gần tám mươi tuổi. Thuở con gái o đã từ chối đôi ba đám trai làng đội cau trầu đến ngõ dạm hỏi. Ở vậy không chồng con, o sớm tối vào ra một mình, cửa nhà heo hút.
NGUYỄN TUYẾT LỘC
Những tháng ngày đẹp nhất và có ý nghĩa nhất với tôi, không phải thời thơ ấu chỉ nghe và thấy cảnh chết chóc lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang cao trào khi theo ba là bác sĩ chuyển nhiệm sở từ Huế ra Đồng Hới, Quảng Bình.