Hữu Loan: Nếu chiều mưa một cây đàn ghi-ta

14:51 11/09/2010
NGUYỄN ĐỨC TÙNGNếu chiều mưa một cây đàn ghi-ta có ai cầm lên, ngân vài nốt nhạc, thời gian sẽ chậm lại, mọi người ngồi gần vào nhau, im lặng chờ nghe.

Nhà văn Nguyễn Đức Tùng

Đó là ký ức của tôi về một buổi chiều năm 1975, đầu thu, nhà tôi có người khách lạ, bạn của anh tôi. Anh mang theo cây đàn ghi-ta, gói trong vải bọc. Anh cho biết ngày mai trình diện theo lệnh tập trung cải tạo đợt cuối, trễ, dành cho sĩ quan cấp úy, không biết khi nào về. Anh bảo, mình sẽ hát một bản cuối cùng, không bao giờ chạm tới cây đàn nữa. Ngày ấy “nhạc vàng” bị cấm gắt gao. Đổi đời, chấm dứt lãng mạn. Tôi đề nghị anh hát Ngày xưa Hoàng Thị. Trời sắp tối, cả bọn lưu luyến ngồi thêm một lúc. Sau lưng anh, cửa sổ mở ra nền trời mây đục, man mác trước cơn mưa, cảm giác chia biệt. Anh muốn hát một bài trước khi ra về, dặn tôi, là đứa trẻ nhất, nghe kỹ. Đó là bài Áo anh sứt chỉ đường tà, Phạm Duy phổ nhạc Màu tím hoa sim. Lần đầu tiên tôi nghe trọn vẹn bài hát này. Chiều hành quân qua những đồi sim những đồi sim những đồi sim đồi tím hoa sim tím cả chiều hoang biền biệt

Thật ra lúc chín, mười tuổi tôi đã nghe Phương Dung hát Những Đồi Hoa Sim của Dzũng Chinh, từ một chiếc máy quay đĩa của hãng Asia. Trên các tạp chí cuối những năm sáu mươi, tôi cũng đọc một số tác giả viết về Hữu Loan. Đang hát thì trời mưa, rào rào trên mái, trận mưa đầu mùa. Nhạc Dzũng Chinh đơn giản, xúc động, nhạc Phạm Duy bi thương, hùng tráng. Có lẽ người bình dân thích điệu rumba lãng đãng của Dzũng Chinh, người tâm sự buồn thích cái phức tạp, biến điệu, sang trọng của Phạm Duy. Thế là từ sớm, đầu những năm sáu mươi, nhiều người đã biết bài thơ của Hữu Loan là do các ca khúc. Theo nhiều tài liệu, bài thơ này được công bố lần đầu trên báo Trăm Hoa của Nguyễn Bính năm 1956 ở Hà Nội, nhưng ấn bản hạn chế. Tôi chưa từng được đọc bài thơ ấy in trên giấy trắng mực đen mãi cho đến sau này. Tôi nghĩ nhiều người cũng vậy. Năm 1978, đi lao động tập trung trên công trường Nam Thạch Hãn, trong một đêm lửa trại, tôi nghe vài thanh niên và bộ đội tham gia công tác thủy lợi hát bài Áo anh sứt chỉ đường tà xen giữa những bài Trường Sơn đông Trường Sơn tây, Dáng đứng Bến Tre, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ.

Các nhạc sĩ khi phổ thơ phần nào sửa đổi, lược bớt, không giữ nguyên bản. Nhưng bài thơ vẫn chinh phục lòng người. Vì sao? Trước hết là vì câu chuyện được kể từ bài hát. Xưa nay trong tình yêu sự chia ly nào cũng xúc động. Chia ly tột cùng là cái chết. Chúng ta đề cập đến câu chuyện, bởi vì bài thơ của Hữu Loan là một trong những bài thơ trữ tình - tự sự đầu tiên của thơ Việt Nam nửa sau thế kỷ hai mươi. Tôi nghiệm thấy một tác phẩm càng nổi tiếng, nó càng được ít đọc một cách cẩn thận.

Nàng có ba người anh đi bộ đội

Trong thơ, câu mở đầu là câu đặc biệt. Thơ trữ tình là tiếng nói cá nhân, là tâm sự của mình với chính mình. Thơ tự sự là nói cho người khác nghe.

Bảy năm về trước em mười bảy (Vũ Cao)

Là trữ tình mà không trực tiếp.

Năm năm rồi không gặp/ Từ khi em lấy chồng     (Nguyễn Văn Bình)

Trữ tình hơn, nói với người yêu.

Còn: “Nàng có ba người anh đi bộ đội”, là một câu thơ tự sự, nói cho thiên hạ nghe.

Bài thơ tự sự càng có tính trữ tình thì câu mở đầu càng quan trọng, và ngược lại. Hữu Loan đã chọn phương pháp dẫn vào chuyện với nhân vật chính (nàng) mà vẫn giới thiệu được gia đình. Hiệu ứng của ba câu đầu:

Nàng có ba người anh đi bộ đội/ Những em nàng/ Có em chưa biết nói

Nằm ở chỗ sự khác lạ của trường hợp: người vợ trẻ có đến ba người anh đi bộ đội, nhưng các em lại còn nhỏ vừa sinh ra đời. Trong văn chương, sự thật chinh phục chúng ta nếu nó xuất hiện một cách không quen thuộc. Tôi phân vân về khoảng cách quá dài giữa các con đầu và các con sau trong một gia đình, chuyện có đến ba người anh đi bộ đội và những người em chưa biết nói, nửa tin nửa ngờ. Đến nay tôi vẫn còn nhớ nỗi thắc mắc về việc người vợ trẻ có một đứa em hay nhiều hơn một đứa em. Cách đây năm mươi năm những sự thực về đời sống riêng của Hữu Loan chưa được tiết lộ.

Câu chuyện gồm các nhân vật. Những người anh, người em, người vợ trẻ, người mẹ, người chồng, người kể chuyện. Có hai câu hỏi: vì sao ta biết người kể chuyện là nhân vật? Vì người kể chuyện ở ngôi thứ nhất và cũng tham dự vào câu chuyện như một nhân vật. Vì sao ta biết người kể chuyện chính là tác giả? Có hai cách để biết như thế: văn bản và ngoài văn bản. Tiểu sử Hữu Loan. Vào những năm 1960 không ai biết rõ tiểu sử ấy cả, nhưng tôi cho rằng hầu hết người nghe đều tin tác giả đang kể chuyện của đời mình. Đó là nhờ giọng trữ tình mạnh của bài thơ tự sự. Một so sánh:

Ai bảo chăn trâu là khổ/ Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao (Giang Nam)

Có ấn tượng rằng “tôi” cũng chính là tác giả, nhưng mối liên kết này không mạnh bằng trường hợp Màu tím hoa sim (MTHS). Mức độ trữ tình càng mạnh thì mối liên kết càng chặt. Nhưng mặt khác, có người có thể nghĩ rằng tự sự và trữ tình trái ngược nhau, tính tự sự mạnh thì tính trữ tình giảm bớt và ngược lại. Điều đó không đúng. MTHS vừa mạnh về trữ tình vừa rất mạnh về tự sự, chúng không loại bỏ nhau. Giả thiết rằng nếu sự thật Hữu Loan không phải là nhân vật tôi trong bài thơ, cũng như Giang Nam không phải là nhân vật tôi trong bài Quê hương, sự “thất vọng” ở người đọc sẽ lớn hơn trong trường hợp Hữu Loan, vì liên kết càng mạnh, bẻ gãy càng chấn thương. Chúng ta có thể “thở phào nhẹ nhõm” về trường hợp Hữu Loan. Nhưng cho đến nay tôi vẫn chưa thấy có bằng chứng nào cho biết Giang Nam ngày xưa có đi chăn trâu không, mà nếu ông có đi chăn trâu thì cũng chưa chắc đó là nguyên nhân dẫn đến việc đi làm “cách mạng”. Bởi vì: ai bảo chăn trâu là khổ?

Trong thơ Việt Nam, giữa những bài thơ khác nói về nỗi bi thương sau cái chết của người thân: Gửi người dưới mộ của Đinh Hùng, Đám tang Nguyễn Duy Diễn của Nguyên Sa, Quê hương của Giang Nam, Núi Đôi của Vũ Cao… bài Màu tím hoa sim nhắc đến nhiều nhân vật hơn cả. Tôi nói nhắc nhưng thật ra với nghĩa là các nhân vật đó có tham gia hành động, tức là trong cấu trúc của câu chuyện. Những người anh:

Một chiều rừng mưa/ Ba người anh/ Từ chiến trường Đông Bắc

Là một hình ảnh, không chỉ là sự đưa đẩy của cốt truyện. Lúc đọc, người ta nghĩ về một thời ly loạn, một vùng chiến khu rừng núi âm u, rét mướt, mưa rừng bao phủ, mặc dù có thể chẳng biết Đông Bắc là đâu. Những người em không chỉ là nhân vật hậu trường: họ có đời sống riêng của mình.

Đứa em nhỏ lớn lên/ Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị

Nhỏ quá nên không biết khóc, chưa biết đau thương.

Hình ảnh người mẹ: Má tôi ngồi bên mộ con/ Đầy bóng tối

Má là thật, mặc dù tôi chẳng biết tại sao Hữu Loan gọi mẹ bằng má. Là một người đọc, tôi tin như thế. Đó là sức mạnh của sự thuyết phục. Chi tiết chiếc bình hoa ngày cưới/ thành bình hương là một chi tiết đắt trong chuyện kể, dễ gây xúc động ban đầu, nhưng tôi không hoàn toàn tin như thế. Tôi nghĩ nó là một ẩn dụ. Tài năng của Hữu Loan là ở chỗ đã kết hợp được tính nghệ thuật cao và tính công chúng về ngôn ngữ, hình ảnh, nhạc điệu. Thơ trữ tình là tiếng khóc và tiếng cười, là khổ đau và hạnh phúc, tình yêu của Hữu Loan với người vợ vui ít buồn nhiều, sum họp ngắn, chia ly dài, nhưng không phải không có những ngày vui ngắn ngủi.

Nang cười xinh xinh/ Bên anh chồng độc đáo

Tiếng khóc làm nên khúc bi ai, hạnh phúc làm nên thơ tình. MTHS vừa là thơ tình vừa là khúc ca ai oán. Một khúc ca bi ai, than khóc về cái chết hay về sự chia biệt, thường tĩnh lặng, hình ảnh của nó ít khi có chuyển biến, ít khi vận động.

Trăng của nhà ai trăng một phương
Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường
                                    (Vũ Hoàng Chương)

Nhưng MTHS là một bài thơ buồn mà vận động, thay đổi. Điều đó trước hết là do sự vận động của cảm xúc. Đến lượt, cảm xúc vận động là thông qua các hình ảnh. Hữu Loan giới thiệu màu hoa sim như thế nào? Đầu tiên là hồi tưởng của người kể chuyện: Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím. Nhà thơ đã cẩn thận khắc sâu hình ảnh này một lần nữa: Áo nàng màu tím hoa sim.

Đây là một trong những hình ảnh mang tính tượng trưng hiếm hoi của bài thơ. Áo màu tím là tượng trưng. Nhưng mặt khác, hình ảnh ít khi thay đổi, trong trữ tình lại càng rất khó vận động. Nhờ phương pháp tự sự, chuyển từ kể chuyện thành mô tả:

Những đồi sim dài trong chiều không hết

Nhìn áo rách vai tôi hát trong màu hoa
mà Hữu Loan đã làm cho hình ảnh trở nên sống động, cảm xúc có đời sống riêng. Khúc bi ai về cái chết của người thân trở thành một khúc hát cho chính mình, tiễn biệt mình. Trong các màu sắc: đỏ, xanh, vàng, lục, lam… thì màu tím là màu bâng khuâng hơn cả, rộng dài hơn cả, lưu luyến hơn cả đối với người Việt Nam. Sim không phải là loài hoa vương giả, mọc từng cánh không có gì đặc biệt, nhưng khi chúng tụ lại thành chùm, thành cây, thành rừng thì mênh mông, dào dạt, xúc động cả đất trời.

Nhiều chữ mới trong vỏ thân thuộc. Ví dụ: biền biệt không phải là một chữ lạ nhưng cách dùng mới. Biền biệt là gì? Xa cách, không gian, thời gian. Chiều hoang là gì? Chiều hoang dã, hoang dại, chiều mồ côi, bầu trời của người cô độc sau cái chết người thân. Chữ Hữu Loan sáng tạo. Bao nhiêu năm người ta hát hoài mà không cũ vì nó sáng tạo. Làm sao chống lại cái chết? Chỉ là bằng sự sống, bằng tình yêu đối với cuộc đời còn lại. Và với thiên nhiên, đồng ruộng, núi đồi. Bài thơ MTHS không phải là bài thơ viết về thiên nhiên nhưng câu chuyện buồn thương mà nó kể lại nhuộm đẫm mùi hoa cỏ. Thiên nhiên là tái tạo, mùa màng là trở đi trở lại: sự khổ đau cũng trở đi trở lại. Không có gì ngạc nhiên khi Hữu Loan dùng nhiều phương pháp điệp âm, điệp ngữ.

Hoa sim tím/ màu tím hoa sim/ những đồi hoa sim/ những đồi hoa sim dài/ màu tím hoa sim/ tím chiều hoang

Các nhạc sĩ cũng rất trung thành với phương pháp lập đi lập lại này của nhà thơ, vì họ nắm vững hiệu ứng lập lại trong âm nhạc.

Những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt/ vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím tóc thề đang chấm vai (Dzũng Chinh)

Tôi mới từ xa nơi đơn vị về/ tôi mới từ xa nơi đơn vị về/ thời loạn ly có ai đòi áo cưới/cưới vừa xong là tôi đi cưới vừa xong là tôi đi (Phạm Duy)

Lập lại điều gì là hình thức giản đơn nhất của âm nhạc. Sự lập lại gợi ra sự chú ý, tức tính hấp dẫn. Vì vậy các nhạc sĩ thường dùng kĩ thuật này. Lắng nghe một ngôn ngữ lạ, bạn sẽ ghi nhớ nhiều các mẫu lập lại trong câu. Trẻ con trong đồng dao cũng lập lại. Trong thơ sự lập lại tạo cảm giác thích thú, đồng điệu, thỏa mãn, nương nhờ:

Mai chị về em gửi gì không/ Mai chị về nhớ má em hồng (Nguyễn Đình Tiên)

Có khi tạo cảm giác căng thẳng:

Chúng tôi nhảy múa hò reo/ Thế là nó thoát thế là nó thoát (Nguyên Sa)

Lập lại không những là một yếu tố về tiết điệu mà còn có ý nghĩa cấu trúc đối với bài thơ. Hữu Loan cũng chọn từ rất kỹ; và trong nhiều đoạn đã cố tình làm nhòa ngôn ngữ. Thay vì viết: Thì thương/ người vợ bé bỏng/ chờ chiều quê

Thì ông viết: Thì thương/ Người vợ chờ/ Bé bỏng chiều quê

Nhờ thế, cả buổi chiều quê cũng trở nên bé bỏng. Người chết rồi được tự do trở lại với thiên nhiên, đất trời, vũ trụ, an bình, vĩnh cửu đời đời, trong khi người sống sót, người ở lại, sống trong thương tiếc bàng hoàng, ngậm ngùi, tự trách, trên cõi trần tạm bợ. Một bài thơ tình viết về cái chết, viết về người thân qua đời, sẽ thành công nếu nó truyền cho ta cảm giác trộn lẫn của đời sống và cái chết, về khung cảnh, trong trường hợp này là đất nước chiến chinh, và về ý nghĩa của sự mất mát, về hứa hẹn của một kết nối tâm linh.

Tôi nghe nói rằng Hữu Loan viết bài thơ một mạch, trong mấy tiếng đồng hồ, viết một lần là xong. Chi tiết này, dù đúng, có thể gây ra ngộ nhận đối với quá trình sáng tạo. Đọc kỹ bài thơ, quan sát Hữu Loan dùng chữ, tôi tin rằng ông đã cân nhắc nghiền ngẫm rất lâu khi hạ những chữ ngỡ ngàng, bé bỏng, biền biệt và rất nhiều chữ khác. Ông làm bài thơ bảy tháng sau khi được tin người vợ mất: bảy tháng là thời gian dài đối với nỗi tiếc thương, đủ để nung nấu một trong những bài thơ lừng lẫy.

William Wordsworth:

Poetry is the spontaneous overflow of powerful feelings: it takes its origin from emotion recollected in tranquillity (Lyrical Ballads)

Thơ ca chảy trào xúc động lớn: nó phải vọt lên từ cảm xúc được lai rai hồi tưởng trong tháng ngày tịch mịch.

Hữu Loan không chỉ có bảy tháng chuẩn bị cho bài thơ của mình. Ông còn “chuẩn bị” trước đó bằng bài Đèo Cả nổi tiếng, viết năm 1946, lấp lánh tài năng của một nhà thơ mới.

Núi cao ngút!/ Mây trời Ai Lao/ Sầu đại dương!/ …/ Về bên suối đánh cờ/ Người hái cam rừng ăn nheo mắt/ Người vá áo thiếu kim mài sắt/ Người đập mảnh chai vểnh cằm cạo râu

Cái nheo mắt của Hữu Loan đóng đinh bài thơ vào huyền thoại kháng chiến, không gian tình tự dân tộc. Thơ tự do của Hữu Loan có hai đặc tính: sử dụng nhiều vần điệu và tính đối xứng trong cấu trúc. Hai tính chất này cũng chi phối nền thơ Việt tự do thời kỳ vừa ra khỏi thơ cổ điển có vần của Thơ Mới, phản ảnh sự thay đổi về thẩm mỹ của các nhà thơ, tuy mới nhưng chưa hoàn toàn từ bỏ xúc động mỹ học cũ. Thơ ông vì vậy dễ đọc, dễ ngâm, được công chúng rộng rãi đồng điệu yêu mến.

Thơ dĩ nhiên là chữ nhưng các ý tưởng và cảm xúc mà thơ mang lại bao giờ cũng, hoặc hầu hết là, thông qua hình ảnh, trước tiên là hình ảnh. Cũng như ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ có ít nhất hai loại nghĩa: nghĩa hẹp và nghĩa rộng hay nghĩa đen và nghĩa bóng. Sim vốn là một hình ảnh quen thuộc trong đời sống, nhưng người dân quê thường nói đến trái sim nhiều hơn. Thời chiến tranh chưa lan rộng, những ngày nghỉ học tôi cũng thường cùng bạn bè lang thang trên đồi hoang Cam Lộ, Gio Linh hái những trái sim có vị chát, ngọt bùi. Theo tôi biết Hữu Loan là người đầu tiên nhắc đến hoa sim trong văn học và nhắc một lần thì không ai quên được. Sở dĩ như thế là vì hoa sim trong bài thơ vừa là hình ảnh có thật, một hình ảnh đơn giản, vừa có vai trò như một ẩn dụ lớn.

Má tôi ngồi bên mộ con

Mộ là hình ảnh, nhưng chưa phải là ẩn dụ.

Chiếc bình hoa ngày cưới/ Thành bình hương

Bình hoa là hình ảnh, bình hương là ẩn dụ.

Không những thế, với sự phổ biến sâu rộng, phần lớn nhờ các ca khúc, hoa sim tím đã trở thành một biểu tượng. Sự khác nhau giữa ẩn dụ và biểu tượng hoa sim là: ẩn dụ có tính đặc trưng, cá nhân, nặng về cảm giác, trong khi biểu tượng có tính khái quát, tập thể, nặng về khái niệm. Người đọc và người nghe hôm nay đã phát hiện trở lại cho mình một biểu tượng tâm hồn. Thật an ủi biết bao. Người Việt cần đến chúng biết nhường nào trong giai đoạn hiện nay, một giai đoạn mà các ký ức văn hóa, các giá trị tinh thần đã bị tẩy sạch bởi chiến tranh và bạo lực tinh thần. Hoa sim được nhắc lại ba lần trong suốt bài thơ: Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím

Được nhắc lại: Chiều hành quân/ Qua những đồi hoa sim

Đừng quên rằng nhan đề của bài thơ là lần nhắc đến đầu tiên: vai trò của nhan đề đã được Hữu Loan sử dụng sớm trong thơ Việt Nam cận đại. Không phải cái nhan đề nào cũng quan trọng như thế. Nhờ sự lập đi lập lại này, mỗi lần lập lại là một lần biến đổi, lật qua một khúc quanh của câu chuyện, hình ảnh trong bài thơ trở nên vận động, có đời sống riêng, chuyển hóa thành một cái gì lớn lao hơn là một màu hoa:

Nhìn áo rách vai/ Tôi hát trong màu hoa

Thiên nhiên, trong khi vô tình tàn nhẫn, cướp đi một người thân yêu, thì lại mang khuôn mặt dịu dàng nữ tính, trở thành nơi nuôi dưỡng của người sống sót, chốn trở về của chàng trai mồ côi tình yêu, của người lính đau thương nhưng chung thủy hào hùng. Tôi chú ý đến chữ hát trong câu thơ của Hữu Loan: câu ca dao áo anh sứt chỉ đường tà đã được ông hát lên trước cả Phạm Duy, trước người khách của nhà tôi một chiều đầu thu năm 1975. Cái chết bao giờ cũng tìm cách đến giữa hai người yêu nhau. Nhà thơ có hai công việc: thông báo nó đến người đọc và kết thúc nó ngay trong bài thơ. Hữu Loan đã không chọn cách mô tả cái chết. Khác với các nhà thơ phương Tây, từ xưa đến nay, các nhà thơ Việt thường không có thói quen làm điều này: họ chỉ thông báo. Và, hệt như trong đời sống, đây là công việc khó khăn. Hữu Loan chọn phương pháp chuẩn bị tâm lý:

Nhớ về ái ngại/ Lấy chồng thời chiến chinh/ Mấy người đi trở lại

Số phận ba lần cay đắng: cái chết đã chọn không phải người đàn ông mà người phụ nữ; không phải người lớn tuổi mà người trẻ tuổi; không phải người trai khói lửa mà người gái hậu phương. Khuyết điểm của phương pháp tâm lý này là người đọc không biết được nguyên nhân cái chết của người vợ trẻ. Tôi còn nhớ thuở nhỏ đã có lúc ngờ rằng cô chết vì chiến tranh, cụ thể là vì bom đạn của Pháp. Tôi không chắc rằng cảm giác nghi ngờ ấy đã làm tăng lên hay làm giảm đi xúc động của mình như một người đọc, chỉ dựa vào văn bản thuần túy.

Một bài thơ tự sự cần “kết thúc”, nghĩa là sự kết thúc cụ thể, trong khi với thơ trữ tình điều này mơ hồ hơn. Có nhiều cách. Thông thường tác giả tìm cách tóm tắt câu chuyện và rút ra những “bài học”. Khuôn mẫu này được áp dụng nhiều ở các bài thơ của các nhà thơ nặng về luân lý đạo đức hay chính trị.

Anh đi bộ đội, sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
                                    (Núi Đôi, Vũ Cao)

Kết rất chặt. Cách này điển hình, nặng về ý, nhẹ về tứ, mặc dù vẫn đầy đủ hình ảnh, nhưng nếu nhà thơ không có tài dễ rơi vào sự sáo rỗng như có thể thấy ở nhiều bài thơ khác.

Hữu Loan chọn cách kết thúc phóng khoáng, trung thành với không khí u buồn hoài niệm của bài thơ mà vẫn mở ra:

Tôi hát trong màu hoa/ Áo anh sứt chỉ đường tà

Nếu sự xuống dòng bậc thang của bài Đèo Cả có thể được xem là thủ pháp nghệ thuật gây cảm giác chênh vênh hiểm trở, thăm thẳm của một vùng rừng núi, cuộc kháng chiến gian khổ, hùng tráng, thì việc ngắt nhiều câu thành những câu ngắn, thậm chí chia ra làm nhiều đoạn ngắn của bài MTHS là vì một tác dụng khác. Đó là sự nới rộng không gian và thời gian. Nới rộng thời gian có nghĩa là làm chậm lại một giây phút, kéo dãn nó ra, buộc thời gian chậm lại. Tốc độ tình cảm càng nhanh, thời gian tâm lý càng chậm. Đó là phương thức trầm tư, tập trung, trong đó nhà thơ không quan tâm lắm đến diễn tiến thời gian từ quá khứ sang hiện tại đến tương lai, mà quan tâm nhiều hơn đến một quãng ngắn, nơi quá khứ, hiện tại, tương lai chập chồng thành một.

Một bài thơ viết về cái chết, sự mất mát, sẽ thành công nếu nó đạt được một trong hai điều sau đây: sự mặc khải huyền nhiệm đối với cái chết. Và thứ hai, quan trọng không kém: tính chất liệu pháp đối với vết thương tâm hồn. Chỉ khi nào bài thơ có những hiệu ứng này đối với tác giả thì bài thơ ấy mới mong có tác dụng tương tự lên người đọc. Cấu trúc ngôn ngữ của bài MTHS có độ dung nạp cao đối với các biến thể về nhịp điệu. Có một tác giả mà tôi không nhớ tên mới đây đã nêu nhận xét thú vị rằng, bài thơ có nhiều phiên bản khác nhau, nhiều cách ngắt câu phân đoạn khác nhau; ngay chính bản thân Hữu Loan khi được yêu cầu ghi lại, thì mỗi lúc, cách ngắt câu xuống hàng cũng hơi khác.

Theo tôi, một lý do là bài thơ này dễ thuộc, có thể ngâm được, trong khi hầu hết các bài thơ tự do khác chỉ có thể đọc trên giấy, khó nhớ, không thể ngâm. Khi ngâm, người đọc sử dụng trí nhớ. Khi sử dụng trí nhớ, người ngâm trở thành người sáng tạo, vô tình hay cố ý truyền cho bài thơ cảm xúc và suy nghĩ riêng của mình vào chính thời điểm ấy đối với câu chuyện. Thử so sánh một khía cạnh của ba bài thơ thuộc vào loại hay nhất của thời kỳ kháng chiến chống Pháp: tính tổ chức âm nhạc của bài Màu tím hoa sim thấp hơn bài Tây tiến của Quang Dũng nhưng cao hơn bài Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm. Như thế là ba yếu tố: kể chuyện - ngâm thơ - hát lên đã hòa vào nhau, khắc bài thơ vào trí nhớ của người đọc. Trong ba yếu tố ấy, nhịp điệu giữ vai trò quan trọng nhất, dù là khi kể, khi ngâm, hay khi hát, vì nhịp điệu và nói rộng ra là âm nhạc có khả năng tạo ra những trường tương tác vô thức mà các phương tiện ngôn ngữ không làm được. Hữu Loan mất đi, để lại thương tiếc cho nhiều người, vì nhiều lý do: số phận nghiệt ngã, quan điểm tự do, nhân cách hùng tráng, nhưng trước hết là vì ông đã nhuộm tím không gian văn hoá bằng tiếng khóc mối tình đầu. Suốt hai mươi năm của miền Nam, các ca khúc đã góp phần nuôi giữ tiếng khóc ấy, làm nó thêm lừng lẫy.

Hình tượng trong thơ, gồm những hình ảnh đơn giản, ẩn dụ, biểu tượng, tạo lập nên cái mà phân tâm học Jung gọi là vô thức cộng đồng. Ngay khi không thể chứng minh sự tồn tại của khái niệm này, màu tím hoa sim cũng đã trở thành một hình tượng của ý thức cộng đồng. Sự xúc động của công chúng là sự xúc động nhân đôi: thương hương tiếc ngọc hai lần.

Mỗi người đọc yêu mến một nhà thơ nào đó thường có những kỉ niệm về người ấy, khi này khi khác, dài lâu, như với một người bạn không bao giờ biết mặt. Tôi lai rai nhớ về Hữu Loan như thế. Không phải là hiện tượng làm thơ một bài, vì dù làm thơ ít, ông còn có những bài hay khác, mặc dù không quan trọng bằng Màu tím hoa sim, như Đèo Cả hay Tình Thủ đô (do nhà thơ Dương Tường ghi lại). Đầu những năm chín mươi, tôi tình cờ đọc một tập thơ Hữu Loan xuất bản tại Hoa Kỳ, gồm nhiều bài thơ thời sự chính trị mới viết, nhân một giải thưởng, hình như chưa thấy công bố bao giờ, nhưng trong đó không có bài MTHS. Tôi không giữ tài liệu này nên nhân đây ghi lại theo trí nhớ. Tôi cũng may mắn được nghe Thái Thanh hát Áo anh sứt chỉ đường tà lúc người ca sĩ này cùng Phạm Duy đến trình diễn ở Calgary nhiều năm về trước. Chính giọng hát trong như xé lụa, mỏng như tơ trời của Thái Thanh làm cho bài ca trở nên bất tử. Hoàng, ngồi bên cạnh tôi, quay lại hỏi: Hoa sim là hoa gì hả anh? Tôi trả lời nàng cho qua chuyện: khi nào đưa em về Việt Nam, anh sẽ chỉ cho. Mới đó mà đã hai mươi năm. Nhưng tôi lo lắng: nước mình bây giờ có còn cây sim nữa không? Để những người yêu nhau:

Đói lòng ăn nửa trái sim
Uống lưng bát nước đi tìm người thương.

N.Đ.T

(258/8-10)




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.