Hữu Loan, Đèo Cả

09:09 25/09/2014

Hữu Loan [1916-2010 là khuôn mặt văn học đặc biệt trong nền thi ca Việt Nam đương đại từ non 70 năm nay. Ông làm thơ hay, hiện đại, tân kỳ, nhưng tên tuổi thường xuất hiện theo thời sự.

Nhà thơ Hữu Loan

Màu tím hoa sim, làm trong thời chống Pháp, 1949, là bài thơ nổi tiếng nhất, nhưng nhiều người nhắc nhở, đôi khi không phải vì lý do văn học, thậm chí còn làm nhiễu lý luận văn chương.

Khắc họa chân dung văn học chân chính và phức tạp của Hữu Loan là việc khó nhưng trước sau cũng phải làm.

Ông tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2.4.1916, dường như đúng là 1914, tại làng quê, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, và qua đời cũng tại đây, ngày 18.3.2010. Qua non một trăm năm dâu biển, sinh và mất cùng một xóm quê, chỉ một việc ấy thôi, đã là nét đặc biệt, trong nhiều đặc biệt khác của Hữu Loan.

Ông thường kể lại là mình xuất thân từ một gia đình nông dân tá điền nghèo. Nhưng chắc là không nghèo lắm đâu, nên mới được học và đỗ tú tài năm 1938. Thời đó bằng tú tài là học hàm cao: với văn bằng này Xuân Diệu đã đi làm Tây Đoan, Vũ Hoàng Chương đi làm thanh tra hỏa xa, còn Hữu Loan thì không dính dáng gì đến quan trường. Thỉnh thoảng giận đời - dăm ba lần trong đời - ông đã bỏ bút mực về quê cầy ruộng, đánh cá, từ 1958 thì đi xe thồ chở đá nặng nhọc. Cũng lại là điều không giống ai.

Ông cưới vợ giàu và gia thế, dù cho bà ấy có mất sớm, thì nếu muốn nhờ cậy, ông vẫn có nơi nương tựa, nhất là nhờ vào « ba người anh đi bộ đội », trước kia là học trò ông dạy kèm trong nhiều năm, về sau hai người là chức trọng quyền cao. Cũng là nét đặc thù. Lại nhiều chi tiết khác, tổng hợp lại, có thể vẽ lên chân dung Hữu Loan. Ông có chìm nổi, có gian lao thật, nhưng là cuộc đời ông chọn lựa làm một « khúc gỗ vuông chành chạnh »; lịch sử có eo ép thật, nhưng là lịch sử chung ; hoàn cảnh riêng ông, có phần do ông tạo ra, không phải là quy luật hay định mệnh.

Điều thiệt thòi cho ông là : khi nhắc đến Hữu Loan, ít người quan tâm, bàn luận đến những đóng góp của ông vào nghệ thuật thi ca từ thời 1945 đến nay. Ít nhiều cũng do chính bản thân ông không mấy quan tâm, dù ông là một trong những người đi tiên phong trong việc cách tân thơ Việt Nam.

*

Hữu Loan ở Đà Lạt năm 1988

 

Bắt đầu là bài Đèo Cả , làm năm 1946 :

Đèo cả ! Đèo Cả

Núi cao ngút

Mây trời  Ai Lao

Sầu đại dương

Dặm về heo hút

Đá Bia mù sương

Bên quán « Hồng Quân » người ngựa mỏi

Nhìn dốc ngồi than,

Thương ai lên đường !

Chầy ngày lạc giữa núi

Sau chân lối vàng xanh tuôn

Dưới cây bên suối độc

Cheo leo chòi biên cương

(…) Rau khe, cơm vắt

Áo phai màu sa trường

Ngày thâu vượn hú

Đêm canh gặp hùm lang thang

Trên báo Văn nghệ, Việt Bắc, số 7, tháng 12-1948, trong mục Tiếng Thơ, Xuân Diệu đã giới thiệu trích đoạn này trong bài viết tại Vĩnh Yên, ngày 23.11.1948 :

« Tôi yêu, tôi phục bài thơ hoang vu Đèo Cả. Một Đỗ Phủ của thời mới đã gọi cái đèo chênh vênh ấy, đứng trong đất nước ta, đứng giữa Phú Yên với Khánh Hòa, mà lại hóa thành heo hút quá. Vì bên này là ta, bên kia là giặc. Nhất là khi chiến tranh chưa lan toàn quốc, từ Bắc Bộ, đi suốt vào Đèo Cả, lên Đèo Cả thấy bên kia giặc rắc tai ương. Đèo Cả biên thùy, đứng trên đầu bể thẳm đụng tới mây cao, Đèo Cả treo giữa biên thùy, mà cái đẹp trầm hùng ngang với lòng chiến sĩ » (tr.35).

Xuân Diệu viết hào hứng, vì rung cảm trước bài thơ, chứng tỏ giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Ông không đề xuất tên tác giả, có lẽ vì bài thơ không ký tên, được đăng trên báo Chiến Sĩ, của Quân khu IV, in tại Vinh, số 8, năm1947 ; lý do không ký tên có lẽ vì chính tác giả Hữu Loan làm chủ biên. Lại là một nét đặc biệt.

(Khi in lại bài này trong cuốn Tiếng thơ, tr 23, nxb Văn Nghệ, 1954, Xuân Diệu nêu tên tác giả: Hữu, và thay « một Đỗ Phủ của thời mới », bằng « một nhà thơ ». Vẫn không nêu rõ danh tính Hữu Loan).

Bài Đèo Cả,  làm trong chiến dịch Nam Tiến; không khí nhắc đến những bài thơ đồng thời, như Nhớ máu của Trần Mai Ninh, làm xong ngày 9.11.1946 tại Tuy Hòa, hay bài Ngoại ô mùa đông 46 của Văn Cao, cùng đăng trên báo Văn nghệ, năm 1948.

Cùng một mạch thơ, khoảng cuối 1950, đầu 1951, Hữu Loan có bài Tình Thủ đô được bè bạn ghi theo trí nhớ, và tác giả đã duyệt lại :

Trên những chuyến xe bò

đi về đường Trèm Vẽ

Việt Bắc âm u

Đường dài Thanh Nghệ

Người Thủ đô tản cư

Đoàn xe bò

Chở nặng tâm tư

Một góc nhà

Một hè phố

Mắt em biếc

Một chiều xưa

(…) Những người bắt sống Le Page

                                               và Charton

Những chiến sĩ Cao Bằng - Đông Khê

Những binh đoàn biên giới

Đang chuyển về Trung Du

Như đi từng dãy núi

Kẹp vòng quanh ngoại vi Thủ đô.

 

(trích theo Dương Tường, phụ lục « Chỉ tại con chích chòe », nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2009)

Bài này đã phảng phất ít nhiều hơi hướm, tình cảm lãng mạn, như trong Màu tím hoa sim, viết về người thật và việc thật xảy ra trong đời Hữu Loan : người vợ trẻ mới cưới, tên là Lê Đỗ thị Ninh, chết vì tai nạn – té xuống sông Chuồn khi giặt giũ – ngày 25 tháng 5 âm lịch 1948 (theo lời kể của Hữu Loan)

Nàng có ba người anh đi bộ đội

(…) Tôi người Vệ quốc quân

xa gia đình

Yêu nàng như tình yêu em gái

Ngày hợp hôn

nàng không đòi may áo mới

(…) Tôi ở đơn vị về

      cưới nhau xong là đi

Từ chiến khu xa

nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến chinh

         mấy người đi trở lại

(…) Nhưng không chết người trai khói lửa

    mà chết người gái nhỏ hậu phương

Tôi về không gặp nàng

(…)

Sự việc, tự nó đã buồn. Nó còn bi thảm hơn nữa khi người đọc tưởng tượng ra cảnh người vợ chết vì bom đạn, và qua lời thơ bi thiết :

Những chiều hành quân

      qua những đồi sim

Màu tím hoa sim

Tím cả chiều hoang biền biệt

Nhìn áo rách vai

     Tôi hát trong màu hoa…

Cái chết ở đây là do tai nạn, thời nào, nơi nào, cũng có thể xảy ra: nhưng đã xảy ra trong thời chiến tranh; và tác giả lại khéo lồng vào khung cảnh khói lửa:

Ba người anh từ chiến trường Đông Bắc

Được tin em gái mất

            trước tin em lấy chồng…

Do đó bài thơ có giá trị truyền cảm và biểu tượng mạnh mẽ, giới văn học ngày nay gọi là « liên văn bản ». Điều này không loại trừ chất nghệ thuật của tác phẩm và tài năng của Hữu Loan, nhưng thời đại cũng đã góp phần hậu thuẫn cho tác phẩm. Chứ trong một chừng mực nào đó, màu tím hoa sim ở đây là hồi quang của hai sắc hoa ti gôn, nổi danh một thời của TTKh.

Riêng cái màu tím ấy, nó đi vào văn học từ bao giờ, bằng con đường nào, vì lý do gì, thì cũng cần khảo sát, chưa chắc gì  nó đã đến từ «  những đồi sim » trong thực tế. Nguyễn Du, quê vùng ấy, tự xưng là « thợ săn » vùng ấy, trong truyện Kiều đã dùng nhiều màu, ngoại trừ màu tím. Lưu Trọng Lư, cũng là người địa phương, nhiều lần mô tả rừng sim, trái sim, mà không nói đến hoa sim. Bùi Giáng , trong nhiều năm, đã chăn dê, chăn bò trong rừng sim vùng cận sơn, cũng không gợi lên màu « tím chiều hoang biền biệt ». Đây là một đề tài văn học cần được khảo sát, trước khi lớn tiếng tuyên dương bài thơ này, bài thơ kia là…hay nhất thế kỷ (!!!).

Chưa kể là bài thơ Màu tím hoa sim, khi ra đời, đã bị ngăn chặn, vì tính cách bi quan, « phản chiến » của nó, trong giai đoạn chiến đấu quyết liệt. Bài thơ miêu tả sự thật mà bị cấm đoán thì càng được truyền tụng, nhất là về phía « bên kia ».Ngay khi bài thơ ra đời, 1949 tại khu Bốn, Phạm Duy đã phổ nhạc, nhưng chỉ công bố tại Sài Gòn từ 1971 ; tại khu Năm, Phan Huỳnh Điểu cũng đã phổ nhạc, nhưng…dấu tiệt.

Bài thơ in lần đầu, theo trí nhớ của tôi, là 1955 tại Huế, trong «  Tuyển tập thi ca tranh đấu hòa bình », tôi có đọc, nhớ mang máng đâu là nhà xuất bản Anh Minh, tại miền Nam thời đó. Đồng thời đã được nhiều người (Dzũng Chinh, Duy Khánh, Anh Bằng…) phổ nhạc ca hát tràn lan, và phái sinh một số sáng tác kiểu « Mùa hoa sim nở », 1956, tập thơ của Đỗ Tấn  (1927- 1984), mô tả tâm sự người vợ có chồng đi tập kết ra Bắc (ghi theo trí nhớ) :

Lấy nhau vừa đúng mười hôm chẵn,

Và chỉ mười hôm, e thế thôi,

Độ rày sim nở,

Tím sim là tím làn môi,

Là tím cuộc đời trong giá,

Là tím tình ta đã lỡ rồi..

Ai người gây nên màu tím,

Tím sim trên núi trên đồi,

Tím sim cho lòng lạnh lắm,

Buồn vương hiu hắt mái gồi…

            Anh có về không hở anh,

Chim không đậu nữa trên cành,

Bình hoa đổ nát,

Bên ngoài tiếng gió reo nhanh…

Hay bài thơ được phổ nhạc «hoa trắng thôi cài trên áo tím» của Kiên Giang, cũng được diễn xướng tùm lum. Tại miền Bắc, sau đó, dường như in trong một số báo Trăm Hoa, Hà Nội, 1956, do Nguyễn Bính làm tổng biên tập. Năm 1990 đã được  nhà xuất bản Hội Nhà Văn in trong một tập thơ cùng tên «  Mầu tím hoa sim » (Chữ Mầu có dấu mũ).

Trong nguồn thơ kháng chiến tiếp nối, tháng 12 năm 1956, Hữu Loan có bài mừng xuân « Ôm Tết vào lòng », phấn khởi sau chiến thắng và hòa bình, nhưng vẫn còn bầm tím vết tích của chiến cuộc :

Tết và mùa xuân

Như mắt người ứa lệ

Những người đầu tang còn

Rối tóc rối khăn

Ôm Tết vào lòng

Băng bó lại mùa xuân

Cùng nói lên

            nói lớn

                một lần

Không được giẫm lên mùa xuân

Không được giẫm lên Tết nữa

Không được

                giẫm chân lên

                            lòng người.

(Giai Phẩm Xuân 1957, nxb Văn Nghệ, Hà Nộị)

« không được giẫm lên lòng người » là một khuynh hướng trong tâm đạo Hữu Loan, thiết tha với tự do, thường xuyên phản kháng. Ông can dự vào phong trào Nhân văn giai phẩm, và trên Giai phẩm mùa thu, tập 2, ông có bài « Cũng những thằng nịnh hót », làm tháng 9-1956 :

Một điều đau xót

Trong chế độ chúng ta

Trong chế độ Dân chủ Cộng hòa

Những thằng nịnh còn thênh thang đất sống

(…) Chúng nó ngụy trang

Bằng tổ chức

          bằng quan điểm nhân dân

                bằng lập trường chính sách

Chúng nó còn thằng nào

Là chế độ chúng ta chưa sạch

Phải làm tổng vệ sinh cho kỳ hết

                                            mọi thằng.

Những người đã đánh bại xâm lăng

Đỏ bừng mặt vì những tên quốc xỉ

Ngay giữa thời nô lệ

Là người, chúng ta

                   không ai biết

                                    cúi đầu.

Trên Giai phẩm mùa đông, tập 1, tháng 12.1956, ông còn có truyện ngắn « Lộn sòng » mô tả những khó khăn trong đời sốngcủa giáo giới Thanh Hóa.

Thời điểm này, ông đi tham gia cải cách ruộng đất [...]. Bà vợ sau của ông, tên Phạm thị Nhu, con nhà địa chủ [...], cùng ông kết hôn 1954.

Năm 1958, sau vụ án Nhân văn Giai phẩm, ông bỏ công việc biên tập viên của nhà xuất bản Văn Nghệ, bỏ Hà Nội, về Thanh Hóa sống lao động lam lũ và vất vả : đốn củi, thồ củi, thồ đá bằng xe bò bánh gỗ... Ông vẫn dũng cảm và kiên quyết sống bất khuất, nuôi nấng mười người con.

[...]

                                                                ***

Người xưa có câu «  cái qua định luận », đến lúc đậy nắp quan tài mới đánh giá được một đời người. Ngày nay sự việc càng có phần phức tạp hơn.

Nhưng với Hữu Loan qua cuộc đời dài non thế kỷ, sôi nổi, khói lửa, truân chuyên, đánh giá kiểu gì đi nữa thì chúng ta đều phải ghi lại hai điểm son : tài hoa và tiết tháo.

Làm nhớ đến một câu văn tế xa xưa :

Ngọc dầu tan,

                  vẻ trắng nào phai

Trúc dẫu cháy,

                  tiết ngay vẫn để./.

Nguồn: Đặng Tiến - VHNA




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?