Huế và văn hoá Huế trong ‘Từ điển tiếng Huế’

08:59 01/09/2010
NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.

Ảnh: minhkhai.vn

Cảm giác khi tra cứu công trình này của tôi là một sự ngạc nhiên và rồi thích thú trước lượng kiến thức mang ý nghĩa nhân học - văn hoá phong phú phơi bày trong tác phẩm. Đây là một khía cạnh thể hiện đặc biệt của tác phẩm, mà theo tác giả đó là tánh cách bách khoa của Từ điển tiếng Huế.

Sự thú vị mang nghĩa nhân học bắt nguồn từ ý nghĩa rằng, các mục từ trong tác phẩm không chỉ là một bản thống kê tiếng Huế, mà nó là một hệ thống ngôn từ của người Huế, trong đó hàm chứa những tư tưởng, kiến thức, quan niệm, tình cảm, lối sống..., hay khái quát hơn là chứa đựng tính đa dạng của nền văn hoá Huế thông qua ngôn từ. Về điều này, tác giả cũng đã nhận thức một cách chủ động trong suốt quá trình biên soạn Về bức tranh văn hoá Huế lồng trong Từ điển tiếng Huế.

Sự thú vị càng ấn tượng khi tôi được tiếp xúc với các yếu tố mà tác giả gọi là Văn hoá đối chiếu(1) trong Từ điển tiếng Huế. Ở góc cạnh này, một số điểm nhấn văn hoá riêng của Huế bàng bạc trong bối cảnh văn hoá tổng thể của quốc gia, của thế giới, đã được tác giả tìm kiếm, chắt lọc, lựa chọn, để rồi so sánh trên từng khái niệm, từng sự vật, hiện tượng, với mục đích muốn nêu lên những nét đặc thù về văn hoá của xứ Huế. Và rồi không chỉ thú vị, tôi cảm thấy tự hào về Huế của mền.  

Trong khi nghiền ngẫm, quả thật chất nhân học thấm đẫm trong mỗi một chi tiết của tác phẩm.

Đó là sự thống kê, phân loại một hệ thống các dạng loại văn hoá đặc trưng của xứ Huế, của người Huế, bao gồm trong các sự vật, hiện tượng của văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần lẫn văn hoá xã hội, cụ thể với các loại bánh, các loại áo, các loại bún, các loại muối, các loại cá, các loại chè, các loại chợ, các loại cơm, các loại củ, các loại cửa, các loại gạo, các loại giếng, các loại hoa, các loại trầu, các loại lúa, các loại ớt, các loại hột, các ngôi làng xứ Huế, các loại lăng, các loại nhà, các loại nước mắm, các loại rượu, các dòng sông, các loại thành quách, các loại tiền, các loại trống, các loại trứng, các ngôi trường, các loại xe, các loại cúng, các loại ma, các vị phật, các vị thầy, các loại hò, các điệu múa, các kiểu ngủ, các loại vè...

Sự phong phú trong thống kê, phân loại mới chỉ phản ảnh một chừng mực. Quan tâm đến những mô tả, lý giải, phân tích về từng sự vật, từng yếu tố văn hoá trong tác phẩm, đó mới chính là phần hồn của Từ điển tiếng Huế.

Chẳng hạn cách lý giải của tác giả rất đậm chất Huế, mang bản sắc đặc trưng con người Huế. Khi mô tả bánh nậm, tác giả dùng các tư... hẩm hẩm, nhuỵ tôm thịt...(2)Dạ! chỉ người Huế mới nói nước ấm là nước hẩm hẩm và chỉ người Huế mới nói nhuỵ tôm thịt, rất gần với nhuỵ bông, không giống với nhưn tôm thịt, mà không là nhưn hoa khi người miền Nam nói về điều này.

Không chỉ có lời, nhiều hình ảnh, hình vẽ đặt cạnh lời, tôn vinh giá trị của sự giải thích. Tôi thích thú với tấm ảnh đậm chất nhân học Vật võ làng Sình(3), bức tranh Chự vịt, Con nấc cụt, mẹ dán lá trầu trước trán(4), Chơi bài chòi(5)... kể cả tấm ảnh gần đây của cố nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba(6) - vị thầy giáo dạy đàn của tôi.

Nhiều vật dụng, nếp sinh hoạt của người Huế cổ xưa, kèm theo cách gọi Huế cổ của nó cũng được tác giả tái hiện, mô tả, phân tích khá hóm hỉnh, sâu sắc như kiểu ngồi xếp bè he(7) với câu vè: Muốn ăn khoai nướng, muốn ăn khoai nấu, ngồi xếp bè he(8). Hay, sự lý giải một cách khoa học về cây thầu đâu (Azadirachta indica A. Juss, họ xoan Meliaceae)(9) mà sau này được gọi theo kiểu hoa mỹ sầu đông. Hoặc, các phân tích về chiếc chẹ(10) một vật họ của chiếc chiếu, khiến tôi chợt nhớ đến câu hò của cư dân các làng Huế ven sông Ô Lâu, ranh giới phía bắc của xứ sở này:

...Đêm năm canh đặt mình xuống chẹ, chẹ chẳng dính lưng,
Ngày sáu khắc bưng bát cơm ăn, mà hai hàng châu lệ, giọt đầm như mưa(11)
...

Cũng với cây thầu đâu, tác giả còn vận dụng thủ pháp đối chiếu, dẫn dắt người đọc đến với cây xoan của người miền Bắc, cây sầu đông của người miền Nam ở Việt nam; hoa Lilas Nhật Bản của Âu Mỹ; loài cây Neem của Phi Châu. Và rồi, lại nói đến tác dụng chữa sâu răng từ chiết xuất của loại cây này ở người Ấn Độ... Sự phong phú và thú vị chung quanh vấn đề cây thầu đâu khiến hấp dẫn tôi muốn góp phần mình, rằng: người M’dhur ở khu vực 3 tỉnh DakLak, Gia Lai, Phú Yên Việt Nam, gọi loại cây cùng họ với loại cây này là teng leng. Cư dân thích dùng lá cây teng leng (hlă teng leng) hơ lửa cho dịu đi chất đắng, xắt sợi mỏng hoặc giã nhỏ trộn với kiến vàng và muối ớt để ăn. Đây là một trong những món đặc sản được yêu thích của cư dân tộc người này. Ngoài ra, còn có thể tìm thấy nhiều mô tả so sánh thú vị khác trong Từ điển tiếng Huế, khi tác giả viết về ngựa Thượng tứ(12)của Huế với horse around của Mỹ, Royal Mews của nữ hoàng Anh. Hay, giải thích bộ phận cơ thể của người phụ nữ nhũ hoa(13) (vú đàn bà) của người Việt liên quan đến quan niệm tính dục của người Mexico...

Hiện trạng đa diện, đa sắc trong Từ điển tiếng Huế, phản ánh kiến thức uyên bác của một người Huế cao niên viết về Huế, phản ánh lý do khiến tác phẩm có thể đạt đến độ dày hằng ngàn trang. Như vậy, Từ điển tiếng Huế càng dày, sự thể hiện đặc trưng Huế và văn hoá Huế càng đa dạng hay chính xác hơn là ngược lại. Bởi thế, là một người Huế, tôi trân trọng những đóng góp cho Huế, về Huế của tiến sĩ, bác sĩ Bùi Minh Đức, tự hào dõi theo độ dày của Từ điển tiếng Huế theo thời gian.

T.P HCM. Ngày 5 tháng 7 năm 2010
N.T.H
(258/8-10)



------------------
(1) Cultural comparison.
(2) Bùi Minh Đức.2009.
Từ điển tiếng Huế. Trung tâm nghiên cứu Quốc học. NXB.Văn học. Mục bánh mì tây. Tr. 88.
(3) Bùi Minh Đức.2009.
Từ điển tiếng Huế. Trung tâm nghiên cứu Quốc học. NXB.Văn học. Tr. 1931
(4) Bùi Minh Đức.2009.
Từ điển tiếng Huế. Trung tâm nghiên cứu Quốc học. NXB.Văn học. Tr. 1249
(5) Bùi Minh Đức.2009.
Từ điển tiếng Huế. Trung tâm nghiên cứu Quốc học. NXB.Văn học. Tr. 66
(6) Bùi Minh Đức.2009. Từ điển tiếng Huế. Trung tâm nghiên cứu Quốc học. NXB.Văn học. Tr. 1309 (1913-1997).
(7) Bùi Minh Đức.2009. Từ điển tiếng Huế. Trung tâm nghiên cứu Quốc học. NXB.Văn học. Tr. 1994
(8) Tôn Thất Bình.2001. Vè Thừa Thiên Huế.
(9) Bùi Minh Đức.2009.
Từ điển tiếng Huế. Trung tâm nghiên cứu Quốc học. NXB.Văn học. Tr. 1584
(10) Bùi Minh Đức.2009.
Từ điển tiếng Huế. Trung tâm nghiên cứu Quốc học. NXB.Văn học. Tr. 316 - 317.
(11) Nguyễn Thị Hoà sưu tầm ở Làng Mỹ Xuyên, Phước Tích
(12) Bùi Minh Đức.2009.
Từ điển tiếng Huế. Trung tâm nghiên cứu Quốc học. NXB.Văn học. Tr. 1315.
(13) Bùi Minh Đức.2009.
Từ điển tiếng Huế. Trung tâm nghiên cứu Quốc học. NXB.Văn học. Tr. 1351.




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐẶNG TIẾN    

    Đầu đề này mượn nguyên một câu thơ Nguyễn Đình Thi, thích nghi cho một bài báo Xuân lấy hạnh phúc làm đối tượng.

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.

  • NGÔ MINH

    Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.

  • DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN

    Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.

  • NGUYỄN HIỆP

    Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

  • Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.