Ảnh: cuocsongviet.com.vn
Cuộc họp quan trọng này đã nhấn mạnh rằng các đô thành lịch sử được đưa vào chương trình nghiên cứu sẽ được tìm hiểu phân tích lý giải trong bối cảnh địa lý, chính trị và kinh tế của chúng, cũng như trong những hoạt động văn hoá - theo nghĩa rộng nhất - của chúng (1). Các chuyên gia của UNESCO đã quyết định rằng chương trình nghiên cứu này sẽ huy động nhiều cuộc khảo sát liên ngành và đa diện dính dáng đến các nhà nghiên cứu sử học, khảo cổ học, xã hội học, dân tộc học, khoa học kiến trúc và quy hoạch đô thị, lịch sử mỹ thuật và mỹ nghệ, lịch sử tôn giáo, địa lý học, ngôn ngữ học, cổ tự học, cổ tiền học, chính trị học, kinh tế học, giáo dục học, nghiên cứu văn học, nông học, địa chất học, địa hình học, thực vật học, âm nhạc học, sân khấu học… Mục tiêu của chương trình là tăng cường sự hiểu biết của các nền văn hoá châu Á trong thời gian và không gian, vì thế công cuộc nghiên cứu sẽ không nhằm khảo sát phân tích từng đô thị riêng rẽ, ngược lại các đô thành cổ này sẽ được nghiên cứu trong bối cảnh chung của lịch sử và của văn hoá toàn châu Á. Một phương hướng nghiên cứu như vậy sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm về sự phân loại các đô thành và các nền văn hoá, về những tiến trình lịch sử của chúng, những giao lưu và ảnh hưởng qua lại giữa các đô thành và các nền văn hoá trong quá khứ cũng như những hậu quả của giao lưu văn hoá và tiếp biến văn hoá (2) trong tương lai. Để đạt được các mục tiêu nêu trên, công cuộc nghiên cứu về mỗi một đô thành đòi hỏi sự hợp tác khu vực dưới hình thức hội thảo có sự tham dự của những chuyên gia đến từ các vùng khác nhau của châu Á nhằm có thể tiến hành so sánh đô thành ấy với các đô thành cổ khác ở châu này. Các chuyên gia họp tại Pitsanulok cũng quyết định rằng các đô thành sẽ được chọn đưa vào chương trình sau khi đã tham khảo các quan điểm phát biểu từ các khu vực, liên khu vực và các dân tộc khác nhau ở châu Á. Tiêu chuẩn lựa chọn sẽ liên quan đến ý nghĩa của những đô thành lịch sử trong quá khứ châu Á nhìn từ phương diện hiện đại và cả từ phương diện tìm hiểu khả năng của các đô thành trở nên những trung tâm tập hợp trí tuệ và phát triển văn hoá trong tương lai. Sau cuộc họp Pitsanulok, một kế hoạch nghiên cứu 6 năm (1980-1985) đã được phác họa cho Chương trình nghiên cứu các đô thành lịch sử được đặt dưới sự bảo trợ và tài trợ chính thức của UNESCO. Các đô thành sau đây đã được ghi vào trong chương trình: - Nara, kinh đô cũ của Nhật Bản. - Huế, kinh đô cũ của Việt Nam. - Kanchipuram, đô thành cổ của Ấn Độ. - Kyongju, đô thành cổ của Nam Triều Tiên. - Bình Nhưỡng, thủ đô của Cộng hòa Nhân dân triều Tiên. - Sukhothat, kinh đô cũ của Thái Lan. - Taxila, đô thành cổ của Pakistan. - Trường An, kinh đô cũ của Trung Quốc (3). Chương trình nghiên cứu các đô thành lịch sử ở châu Á đã được UNESCO giao cho Hội đồng Tư Vấn Nghiên cứu Đông Nam Á của UNESCO trực tiếp phụ trách triển khai. Hội đồng Tư Vấn này là một cơ quan khoa học có tính chất khu vực đặt trụ sở bên cạnh văn phòng văn hoá và văn phòng giáo dục của UNESCO ở châu Á và Thái Bình Dương tại Thủ đô Băng cốc của Thái Lan. Cơ quan ngôn luận của Hội đồng này là tập san thông tin của Hội đồng Tư Vấn nghiên cứu Đông Nam Á xuất bản thường kỳ bằng tiếng Anh tại Băng cốc từ 1980 đến nay. Tập san thông tin của Hội đồng Tư Vấn Nghiên cứu Đông Nam Á tập 3 số 2 tháng 12 năm 1982 đã được dành để giới thiệu và sơ kết những hoạt động của chương trình nghiên cứu các đô thành cổ ở châu Á (trang 1-5) bên cạnh một số hoạt động văn hoá và nghiên cứu khoa học khác của UNESCO tại liên khu vực châu Á và Thái Bình Dương. Tập san đã giới thiệu mục đích và phương hướng của chương trình nghiên cứu, danh mục các đô thành lịch sử đã được chọn và thông báo rằng một phần của chương trình bao gồm công cuộc nghiên cứu Huế kinh đô cũ của Việt Nam và Sukhothat kinh đô cũ của Thái Lan đã hoàn thành bước đầu trong những năm 1980-1981 và 1981-82 (4). Các đô thành lịch sử khác là Nara, Kanchipuram, Kyongju, Bình Nhưỡng, Taxila, Trường An, đang được đang được tiếp tục nghiên cứu và dự đoán là vào khoảng 1984-85 chương trình nghiên cứu sẽ được hoàn tất. Tập san thông tin của Hội đồng Tư Vấn Nghiên cứu Đông Nam Á tập 3 số 2 tháng 12 năm 1982 cũng trích đăng 3 trang về Di tích lịch sử Huế của Lê Văn Hảo (5) và 2 trang về Nghiên cứu đô thành lịch sử Sukhothat giới thiệu cuốn Đô thành lịch sử Sukhothat do M. Thaumcharoen, R. Topengpat và V. Boonak chủ biên với sự hợp tác của nhiều chuyên gia thuộc các trường Đại học Thái Lan. Tập san cũng thông báo: Nhóm công tác của cuộc vận động Quốc tế nhằm bảo vệ và tôn tạo di sản văn hoá Huế đã họp phiên thứ nhất (24/11 - 2/12/1982) và sẽ họp phiên thứ hai (từ 24 - 29/10/1983) tại Hà Nội và Huế. Tập san nhắc lại cho chúng ta biết: năm 1980 Đại hội đồng UNESCO đã bỏ phiếu thông qua một kế hoạch hành động nhằm tu sửa 17 di tích lịch sử của cố đô Huế, một trung tâm văn hoá và du lịch của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay. Việc UNESCO chọn Huế là một trong 8 khu di tích lịch sử trên thế giới để tu sửa và tôn tạo (6) trong kế hoạch sáu năm 1980-1985, rồi lại chọn Huế là một trong 8 đô thành lịch sử của châu Á để đưa vào kế hoạch sáu năm 1980-1985 của chương trình nghiên cứu vừa nói lên sự thừa nhận của quốc tế đối với ý nghĩa, vị trí, vai trò và tầm quan trọng của Huế trong tiến trình lịch sử văn hoá châu Á. Điều này cũng gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ về trách nhiệm của mỗi chúng ta đối với việc tìm hiểu Huế và góp phần xây dựng Huế thành một trung tâm văn hoá và du lịch của đất nước (7). Chúng ta hoan nghênh việc Đảng bộ và chính quyền thành phố Huế đã chủ trương nghiên cứu và biên soạn lịch sử Huế (8). Chúng ta cũng vui mừng và phấn khởi thấy nhiều cơ quan văn hoá, cơ quan nghiên cứu khoa học ở Trung ương như Viện Sử học, Viện nghiên cứu văn hoá … ngày càng quan tâm đến việc nghiên cứu lịch sử và văn hoá Huế, hỗ trợ đắc lực cho những cố gắng và nhiệt tình của nhiều nhà nghiên cứu địa phương, nhà văn và nghệ sĩ đã miệt mài với đề tài Huế trong những năm qua. L.V.H. (1/5&6-83) ----------------- 1. Nghĩa là bao gồm cả văn hoá vật chất, văn hoá xã hội và văn hoá tinh thần. 2. acculturation. 3. Tư liệu của Hội đồng Tư Vấn Nghiên cứu Đông Nam Á do Ủy ban quốc gia UNESCO của Việt Nam cung cấp. 4. Riêng về Huế, như chúng ta đã biết từ 1979 đến nay, UNESCO đã xuất bản các công trình sau đây: - Di tích lịch sử Huế của Pierre Pichard, UNESCO xuất bản, Paris 1979, 100 trang. - Châu Á vĩ đại và quang vinh, Trung tâm văn hoá châu Á của UNESCO (ACCI) xuất bản, Tokyo, 1981, 100 trang (bản tiếng Anh) có phần nói về cố đô Huế do Lý Khắc Cung biên soạn. - Vì công cuộc bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế, lời kêu gọi của ông Tổng Giám đốc UNESCO A.M.M’Bow, UNESCO xuất bản, 4 trang (bản tiếng Nga, Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Ả rập, Việt) - Huế, một trung tâm văn hoá và du lịch của Việt Nam của Lê Văn Hảo và cộng tác viên, nhà xuất bản UNESCO Paris 1982, 44 trang (bản tiếng Nga, Pháp, Anh) do ông A.M.M’Bow đề tựa. - Huế một bài thơ đô thị tuyệt tác, của Lê Văn Hảo và cộng tác viên, nhà xuất bản Đông Nam Á Paris 1982 ấn hành với sự tài trợ của Quỹ Quốc tế phát triển văn hoá của UNESCO, 200 trang (bản tiếng Pháp) do ông A.M.M’Bow đề tựa, đại sứ Vũ Trọng Kính giới thiệu. 5. Trích từ tác phẩm “Huế một bài thơ đô thị tuyệt tác”, sách đã dẫn. 6. Các khu di tích lịch sử khác là thuộc các nước Pêru, Haiti, Malta, Guaranitx, Xênêgan, Sri Lanka và Mauritania. 7. Xem thêm: Huế, một trung tâm văn hoá lớn của đất nước ta, từ hôm nay đến ngày mai, tập san văn nghệ Bình Trị Thiên, số 271, 1982 tr. 70-74. 8. Xem nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Huế lần thứ II (1982) |
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.