Huế thơ và thơ Huế

10:51 12/08/2009
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

Nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch - Ảnh: Lê Vĩnh Thái

Huế Thơ là một “không gian quí phái” ăm ắp những danh lam thắng cảnh, những đền đài lăng tẩm và cả những mong manh sương khói hoà quyện với nhau thành một kiệt tác “siêu kiến trúc” về đô thị. Nó là di sản văn hoá “đồng bộ” trên ba mặt vật chất, phi vật chất và cảnh quan môi trường. Huế Thơ theo quan niệm mới hơn, mộc mạc hơn của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng là “Thiên nhiên đẹp, xã hội đẹp và con người đẹp”.

Huế Thơ luôn luôn là nguồn thi hứng vô biên cho những tâm hồn lãng mạn đi tìm giới hạn của mình. Nó cũng là sự thách đố, sự giễu cợt với mọi ngộ nhận và dễ dãi về thi ca. Đã có không ít những cảm xúc thơ “tươi sống” và nhạt nhẽo được tác giả của nó vẽ vời thêm trên màu sắc sông Hương núi Ngự. Thật ra, đấy chỉ là những cảm xúc phiến diện trên bề mặt của giác quan mà giác quan thì bao giờ cũng dừng lại ở “những điều trông thấy” làm sao có thể thấu đoạn “mà đau đớn lòng” được? Nếu chỉ làm công việc miêu tả Huế đẹp như thế này, Huế duyên dáng như thế kia thì thơ ca sẽ bị lép vế, thậm chí bị thừa trước nhiếp ảnh, chưa nói là hội họa. Mặt khác, thơ kiểu ấy cũng chẳng có giá trị gì vì thực chất nó chỉ là một “phiên bản” máy móc, vô hồn của bức tranh Huế Thơ. Huế Thơ sẽ chối bỏ những gì giống nó; nó chỉ làm chất xúc tác, làm cái “vận vào” cho từng tâm trạng cá biệt của thi nhân. Bởi thế mà mặc dù cùng thụ cảm một dòng sông xứ Huế những mỗi thực tại tâm linh đều phóng bế một mặc khải cơ duyên của mình. Bằng khí phách ngạo nghễ, Cao Bá Quát đã nhìn sông Hương như một lưỡi kiếm dựng giữa trời xanh (Trường Giang như kiếm lập thanh thiên). Còn với nỗi niềm đau đáu trước cuộc đời, thi hào Nguyễn Du lại thấy sông Hương là mảnh trăng nung nỗi buồn kim cổ (Hương Giang nhất phiến nguyệt, kim cổ hứa đa sầu).

Ngay ở các nhà thơ đương đại cũng vậy, với sông Hương, họ đều tìm ra góc độ riêng để chiếu dọi Anima của mình vào đó. Nhà thơ Thu Bồn mãi dây dưa duyên nợ trong bài Tạm biệt Huế, với “con sông dùng dằng con sông không chảy, sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Như mê hoặc với lần đầu tới Huế, thi sĩ Nguyễn Trọng Tạo đã lãng đãng lội ngược dòng “ham chơi” của mình để đến với dòng sông tròng trành ngất ngưởng “sông Hương hoá rựơu ta đến uống, ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say”. Những câu thơ như thế từ Huế Thơ thật quá hiếm hoi. Có nhiều người viết hàng trăm bài thơ và in thành nhiều tập riêng nhưng chẳng hề thấy bóng dáng Huế đâu trong thơ của họ. Thật ngây thơ và ngớ ngẩn khi cho rằng, cứ lắp ghép danh từ Huế với những tính từ bổ nghĩa nào đó hoặc liệt kê các địa danh, địa vật của nó vào tác phẩm sẽ được cái gọi là “rất Huế”. Có Huế hay không là ở cái hồn, cái giọng của thơ chứ đâu phải trong mê lộ của xác chữ. Điều này, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lấy làm tâm đắc lắm. Trong các ca khúc của anh không hề có một từ Huế nào cả nhưng vừa hát lên một câu đã cảm thấy lòng thòng giọt Huế “mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ...”. Có lẽ từ “đầu vào” Huế Thơ đến “đầu ra” Thơ Huế cho đến nay, sự tương tác màu nhiệm nhất, mẫu mực nhất trong quan hệ chủ thể - khách thể vẫn là bài Đây thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử.

Thơ Huế xuất hiện xưa hơn nhưng nếu bắt nguồn từ Huế Thơ thì cột mốc của nó hẳn cắm vào thời thịnh của triều Nguyễn. Khi Huế trở thành kinh đô thống nhất đầu tiên trong lịch sử của người Việt thì việc nó thu hút mọi tinh hoa, trí tuệ của cả nước vào mình để làm nên những công trình hoa lệ là điều tất yếu. Mặc dù bản thân sông Hương, núi Ngự đã là sơn thuỷ hữu tình nhưng nếu không có sự cộng hưởng sáng tạo của con người thì nó cũng chỉ mang vẻ đẹp hoang dã mà bất cứ nơi nào trong thiên nhiên cũng đều có thể có. Con người và thiên nhiên đã làm nên một di sản Huế Thơ để rồi Huế Thơ làm nên một phong cách Thơ Huế. Thơ Huế trong dòng cổ điển hoành tráng nhất vẫn thuộc về nhóm Hoàng tộc kể từ vua Minh Mạng đến các con cháu của ông như Thiệu Trị, Tự Đức, Miên Trinh, Miên Thẩm, Ưng Bình Thúc Giạ Thị... Các tác giả đương thời viết không nhiều lắm nhưng mỗi người một vẻ đã làm cho diện mạo Huế Thơ ngày càng phong phú về nội dung, đa dạng về thể loại. Có những giọng thơ rất Huế và rất độc đáo tiêu biểu cho sự giao thoa giữa dòng dân gian và dòng bác học như thi sĩ Nguyễn Khoa Vy là một điển hình.

Qua trào lưu thơ mới mà nòng cốt của nó là dòng lãng mạn thì Thơ Huế đã mở thêm một không gian cảm xúc và gam màu ngôn ngữ. Hầu như các nhà thơ lớn của cả nước đều tới Huế, ở Huế và viết về Huế. Trong tuyển tập Bài thơ thôn Vỹ do Tạp chí Sông Hương ấn hành năm 1987 đã tuyển chọn khá đầy đủ những gương mặt tác giả và tác phẩm điển hình của một giai đoạn “khoả thân” Thơ Huế. Dòng thơ Cách mạng và yêu nước của Huế cũng để lại một vệt khá đậm nhưng nó đậm về tên tuổi tác giả hơn là tác phẩm của họ. Điều này cũng dễ hiểu vì có những người, đối với họ, sự nghiệp cách mạng mới là mục đích chứ không phải thi ca. Trước hết phải kể đến Ông Già Bến Ngự (tức cụ Phan Bội Châu) rồi tiếp bước vào cuộc kháng Pháp hào hùng đã nổi lên các nhà thơ Tố Hữu,Thanh Tịnh, Phùng Quán, Hải Bằng... Qua thời chống Mỹ, cùng với phong trào sinh viên đô thị, đội ngũ cầm bút - cầm súng của Huế càng rậm rạp và rầm rộ hơn. Đó là Thanh Hải, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Ngô Kha, Trần Vàng Sao, Thái Ngọc San, Võ Quê... Sau ngày giải phóng, đội ngũ thơ Huế vẫn được bảo toàn và bổ sung thêm những cây bút từ nhiều nguồn khác đến. Các nhà thơ danh tiếng Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Trọng Tạo, Ngô Minh, Vĩnh Nguyên... dù từ đâu tới nhưng họ cũng đều hoà nhập vào nhịp điệu của cộng đồng Thơ Huế. Nhà văn Hồng Nhu sau 30 năm đi kháng chiến đã kịp trở mình với “Ngẫu hứng về chiều” để ngồi lên chiếc chiếu thơ của cố hương. Những cây bút trẻ từ sinh viên đi ra bước đầu có giọng riêng, có triển vọng đã trồi lên như Hồng Hạnh, Phạm Nguyên Tường, Văn Cầm Hải, Hải Trung...

Ngỡ đứng riêng một cõi nhưng phái thơ Thiền của Minh Đức Triều Tâm Ảnh cũng đã “ngộ” màu thế tục và chính nó cũng nằm trong hợp âm chủ của giọng minor Thơ Huế. Thơ Huế không gì khác hơn là cái hồn của Huế Thơ. Huế Thơ hay Huế Đẹp cũng vậy. Cái Đẹp nào cũng mong manh dễ vỡ trước vô thường của cuộc sống nên nó hàm chứa một nỗi buồn nhân bản và triết lí nhân sinh. Nỗi buồn được coi như một đặc trưng của thơ và Thơ Huế càng lung linh cái gam màu ấy. Huế trong mắt Bích Khê đã không buồn nhưng sao thơ vẫn lắt lay, man mác:

            Vỹ Dạ thôn, Vỹ Dạ thôn
            Biếc che cần trúc không buồn mà say

Phải chăng giữa buồn say có quan hệ “họ hàng” hoặc ít nhất cũng mang một hệ lụy nào đấy? Người buồn thường tìm đến cái say và người say thường không nhận mình say mà lại nói mình buồn. Thơ Huế đã từng như thế. Thơ Huế còn là sự thầm kín, thanh tao và trầm lắng như những ngôi nhà vườn cổ kính giữa cố đô. Ở đó, những hồn thơ mang tâm thức tôn giáo mà dáng dấp Thiền vẫn trùm lên tất cả.

            Em mềm như đoá tường vi
            Dưới trăng nghiêng xuống thầm thì lời tiên
            Tôi mời em hái quả Thiền
            Đời cây cũng lụy sang miền khổ đau
            Chạm vào Cổ tích trầu cau
            Cuộc tình nào chẳng nhuốm màu của đêm...

Đây là bài thơ Đêm của Tôn Nữ Như Ngân, một cây bút nghiệp dư mà thơ như là nghiệp dĩ. Người làm thơ nghiệp dư ở Huế thì nhiều vô kể. Nói theo lối thậm xưng của Phùng Quán là, xứ Huế cứ 10 người thì có 11 người làm thơ vì trong đó thế nào cũng có người làm bằng hai người khác. Lại có những hiện tượng khó cắt nghĩa, không hiểu sao, một số cán bộ khi đương chức rất dị ứng với các nhà thơ nhưng đến lúc hưu trí thì chính họ lại làm thơ và đi tìm sự đồng điệu. Vậy thơ là cái gì? Mọi định nghĩa về thơ thường chỉ đúng với trường hợp cụ thể nào đó mà tác giả của nó nêu ra như một kinh nghiệm nhưng sự sáng tạo thì kinh nghiệm sẽ chết ngay sau đó, khi đã hoàn thành một quá trình. Ở đây, có lẽ thơ ứng với khái niệm trực cảm của nhà thơ Trần Mạnh Hảo. Theo anh, thơ là chất trẻ thơ của nhân loại còn sót lại trong mỗi con người. Bởi vậy, Thơ vẫn ẩn náu và tồn tại trong mỗi linh hồn như một tôn giáo cá thể.

Cho đến giờ, quan niệm về thơ Huế vẫn còn phải chẻ đôi theo lăng kính “nhị nguyên luận”. Thứ nhất, thơ Huế chỉ chấp nhận những thi phẩm do các tác giả gốc Huế viết ra, dù họ viết gì. Quan niệm này sẽ làm cho thơ Huế nghèo nàn và trở thành tỉnh lẻ. Nếu vậy thì nhìn lại, Huế chỉ còn chóc ngóc vài nhà thơ đại diện cho nền thi ca hiện đại của xứ sở mình. Thứ hai, gồm hết thảy những bài thơ viết về Huế, dù của ai và ở đâu, nghĩa là chỉ cần đặt nó trong tương quan với Huế Thơ. Quan niệm này lại thiếu công bằng với những tác giả bản quán vì thơ họ dù không trực tiếp viết về quê hương nhưng nó vẫn thấm đẫm tâm hồn xứ Huế. Cả hai quan niệm này đều khiếm khuyết, đều không thể đứng lẻ loi mà phải bổ sung cho nhau để làm cho Thơ Huế lại tròn đầy như những gì vốn có của nó. Hiểu rộng hơn, Thơ Huế không chỉ riêng thi ca mà còn bao hàm cả những gì mang trong nó chất thơ.

Đã có một Huế Thơ lừng lững ngang tầm quốc tế thì tin rằng, từ quan hệ biện chứng giữa chúng, giữa ý thức và tồn tại, Thơ Huế cũng sẽ vươn tới những đỉnh cao tương ứng.

N.K.T
(184/06-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HUY

    (Khảo sát qua trường hợp "Người sông mê" qua cái nhìn của lí thuyết Cổ mẫu)

  • NGUYỄN HỮU TẤN

    Trong buổi lễ mừng thọ thất tuần, Sigmun Freud đã từng phát biểu: “Trước tôi, các thi sĩ và triết gia đã sớm phát hiện ra vô thức, còn tôi chẳng qua cũng chỉ khám phá ra những phương pháp khoa học để nghiên cứu vô thức mà thôi”.

  • Tóm lược bài nói chuyện trao đổi một số vấn đề về tình hình văn học Xô viết những năm 80, đặc biệt là sau Đại hội 27 của GSTS V. Xmirnốp trong chuyến thăm Huế với Chi hội Nhà văn Bình Trị Thiên của đoàn cán bộ Học viện văn học Gorki (Liên Xô cũ) do nhà thơ Valentin Xôrôkin, phó Giám đốc Học viện và GSTS Vladimia Xmirnốp đã sang Việt Nam giảng dạy tại trường Viết văn Nguyễn Du năm 1987.

  • Tỳ kheo THÍCH CHƠN THIỆN

    Theo Spaulding - The “New Rationlism”, New York, Henry Holt and Conpany, 1918, pp. 106 - 107 -, Aristotle nêu lên ba nguyên lý cơ bản của tư duy:

  • TRẦN NGUYÊN HÀO

    Năm 1987, tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hóa của Liên hiệp quốc, UNESCO trong cuộc họp Đại hội đồng lần thứ 24 (tại Paris từ 20/10 đến 20/11) đã ra Nghị quyết phong tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh danh hiệu kép: “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn”.

  • ĐỖ HẢI NINH

    Quan sát hành trình Thơ mới, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, vào đầu thập kỷ 40 của thế kỷ XX, Thơ mới bắt đầu có dấu hiệu chững lại, thậm chí khủng hoảng về cảm hứng và thi pháp.

  • JU. LOTMAN

    Từ “biểu tượng” (symbol, còn được dịch là tượng trưng, biểu trưng, phù hiệu, kí hiệu) là một trong những từ nhiều nghĩa nhất trong hệ thống các khoa học về kí hiệu(1).

  • PHẠM TẤN HẦU

    Trong bản tham luận về mảng thơ trên trang viết đầu tay của Tạp chí Sông Hương do anh Hoàng Dũng trình bày tôi thấy có chủ ý nói đến tính khuynh hướng. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được đặt ra một cách chặt chẽ, sâu sắc. Theo tôi, nếu hướng cuộc thảo luận đến một vấn đề như vậy chắc sẽ đem đến cho những người viết trẻ nhiều điều bổ ích hơn.

  • ĐỖ VĂN HIỂU

    Tóm tắt
    Trước tình trạng môi trường toàn cầu đang ngày một xấu đi, giữa thập niên 90 của thế kỷ 20 Phê bình sinh thái đã ra đời với sứ mệnh cao cả là phân tích chỉ ra căn nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái, nghiên cứu quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên.

  • LƯỜNG TÚ TUẤN

    Việc lý luận văn học thống nhất coi “ngôn ngữ là chất liệu của văn học” đã không vì thế mà dành cho cái chất liệu ấy một vị trí xứng đáng trong những luận thuyết và “diễn giải” của mình.

  • PHAN TUẤN ANH

    “Chẳng ai đi dưới bóng hàng cọ mà lại không hề hấn gì”… Ở đời, trong cuộc chơi, cả hai bên đều phải đi qua dưới bóng hàng cọ”.
                   (Nguyễn Xuân Khánh) [2,806]

  • TRẦN THIỆN KHANH

    “Mai kia, những cái tầm thường, mực thước sẽ mất đi, còn lại chút gì đáng kể của thời này, đó là Hàn Mạc Tử.”
                                (Chế Lan Viên)

  • CARSON MCCULLERS

    Khi tôi là một đứa bé chừng bốn tuổi, tôi cùng người bảo mẫu của mình đi ngang qua một tu viện.

  • MANU JOSEPH

    Xét về quan điểm và màu tóc của 50 nhà văn được lắp ghép cho một hội nghị kì quặc ở Edinburgh, thì cái giáo đoàn đó có thể gọi là “50 Sắc Xám.”  Tuy nhiên trong suốt năm ngày hội nghị, khởi đầu từ ngày 17 tháng Tám, hầu hết các nhà văn nhìn nhận rằng họ bị đẩy lui bởi loại sách kém học thức, loại sách bán chạy hơn tất cả các công trình của họ cộng lại.

  • NGUYỄN HỒNG TRÂN  

    …Minh triết là sự làm sáng tỏ một cách khôn khéo những chuyện trong trời đất có liên quan đến cuộc sống vật chất và tinh thần của con người trong xã hội một cách chân thực, rộng rãi, sâu sắc và nó có những năng lượng tiềm tàng rất quý giá đối với sự phát triển tâm đức và trí tuệ con người…

  • WALTER BENJAMIN 

    (Trích trong tác phẩm Illuminations do Hannah Arendt biên tập và đề tựa, 1968, bản dịch từ tiếng Đức của Harry Zohn)

  • NGUYỄN HỮU QUÝ 

    1.
    Tôi luôn tin rằng các nhà thơ đích thực là những người rất lương thiện. Bởi ngọn bút của họ (bây giờ có thể là bàn phím) hướng về tình thương yêu và sự cao đẹp của con người.

  • ĐOÀN HUYỀN

    Xuất hiện ở Việt Nam đã gần một thế kỉ, đến thời điểm này chủ nghĩa hiện thực tuy không còn giữ địa vị của một khuynh hướng sáng tác thống soái nhưng điều đó không có nghĩa những người cầm bút Việt Nam đã thực sự thoát khỏi từ trường của khuynh hướng sáng tác này.

  • LGT: Chuyên luận “Thơ như là mỹ học của cái khác” của Đỗ Lai Thúy nghiên cứu diễn trình thơ Việt từ 1946 đến nay thông qua sự chuyển đổi hệ hình mỹ học thơ từ tiền hiện đại sang hiện đại chủ nghĩa rồi hậu hiện đại.

  • NGUYỄN MẠNH TIẾN

    [Diễn giải về phê bình hiện tượng học văn học Lê Tuyên]