LTS: Tiểu thuyết "Huế mùa mai đỏ", tập I, của Xuân Thiều đề cập đến một thời điểm lịch sử của chiến trường Trị Thiên cũ trong chiến dịch Mậu Thân.
Ảnh: internet
Nhân kỷ niệm 20 năm chiến thắng lịch sử nầy chúng tôi có đề nghị nhà văn Xuân Thiều viết cho vài lời về tác phẩm của mình, đồng thời giới thiệu với bạn đọc bài viết của anh Trần Thức như một ý kiến trong những ý kiến không đồng tình về một số vấn đề trong tác phẩm.
Vài lời của người viết "Huế mùa mai đỏ"
Tôi không được may mắn dự chiến dịch Mậu Thân Huế. Bấy giờ tôi vừa mới ở đường mòn Hồ Chí Minh về Hà Nội. Mãi cuối năm 1968 tôi mới vào chiến trường Trị Thiên. Ngay khi tôi mới đến, các anh trong lãnh đạo khu ủy và quân khu đều khuyên tôi nên viết về chiến dịch Mậu Thân Huế. Riêng tôi là một nhà văn hoạt động trong quân đội, sự kiện 25 ngày đêm ở Huế là một sự kiện vô cùng hấp dẫn, cần phải tìm hiểu. Bấy giờ, quân khu đang tận trên biên giới Lào Việt. Đấy là thời kỳ đầy khó khăn sau Mậu Thân: địch phản kích quyết liệt, đói và sốt rét ác tính. Thời kỳ mà lính ta vẫn nói đùa: "Thừa Thiên thiếu đất thừa trời". Quả thật, bộ đội bám về giáp ranh đã khó, nói gì trở về đồng bằng, trở về Huế. Tôi chỉ còn một cách là tìm gặp cán bộ chiến sĩ tham gia Mậu Thân Huế ở trung đoàn Phú Xuân, thành đội Huế và một số đơn vị khác hỏi chuyện. Suốt một năm la cà khắp các đơn vị, sổ tay tôi đầy những trang ghi chép. Vậy mà những trang ghi chép kia chỉ nằm yên lặng trong sổ tay, trong ký ức hơn chục năm, không trở thành tác phẩm được, về Hà Nội, tôi viết tiểu thuyết "Thôn ven đường", viết tập truyện "Khúc sông", tập thơ "Trước giờ ra trận" và tập bút ký "Đi xa". Tuy nhiên những tài liệu thu lượm được về Huế Mậu Thân vẫn luôn luôn trăn trở, thôi thúc tôi. Viết về Huế Mậu Thân tức là viết về vấn đề gì của con người? Điều băn khoăn ấy chưa dễ gì giải đáp được. Chả lẽ lại đi minh họa một chiến dịch như một thứ truyện tư liệu? Mà ngay cả viết truyện tư liệu cũng chẳng dễ dàng gì. Bởi vì điều trước tiên là việc đánh giá chiến dịch Mậu Thân nói chung và Mậu Thân Huế nói riêng dường như cũng còn khá nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Thắng lợi hay thất bại? Thắng lợi đến mức độ nào, đấy là những điều mà ngay hồi còn ở trên rừng nhiều cán bộ còn băn khoăn, còn có những lập luận khác nhau. Cố nhiên, các cấp lãnh đạo thời đó đã có kết luận, nhưng thực tình kết luận ban đầu ấy vẫn chưa thuyết phục được hết cán bộ, có người còn bảo lưu ý kiến, có đồng chí tranh luận với các cấp lãnh đạo, và buồn thay đã có những hậu quả không lấy gì làm dễ chịu đối với những ý kiến bất đồng ấy. Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, tôi có được dự một cuộc hội thảo do Ban lịch sử Đảng của tỉnh ủy Bình Trị Thiên tổ chức. "Trong cuộc hội thảo ấy", đánh giá về Mậu Thân Huế vẫn còn những khoảng cách về các ý kiến. Những khoảng cách ấy tồn tại mãi đến bây giờ, tuy nhiên với thời gian và sự biến chuyển về cơ chế tổ chức, các cơ quan có trách nhiệm của Đảng và quân đội đang dần dần làm sáng tỏ ra. Quả thật những vấn đề của chiến tranh là vô cùng phức tạp. Trên thế giới, có những trận đánh, những chiến dịch, thậm chí cả cuộc chiến tranh có khi phải mất hàng dăm bảy chục năm, một trăm năm sau mới đánh giá được đúng đắn. Bởi thế, những ý kiến khác nhau về Mậu Thân Huế là điều dễ hiểu. Nhưng dường như những ý kiến khác nhau ấy lại thôi thúc tôi viết. Dường như con người với tính cách khác nhau, sự hiểu biết và cuộc đời riêng khác nhau, lại có khát vọng chung giống nhau là phải thống nhất đất nước phải giải phóng quê hương đã xảy ra ("cú sốc", một sự "vỡ ra") về tư tưởng và tình cảm qua chiến dịch Mậu Thân Huế này. Trong cuộc chiến đấu ác liệt đẫm máu ấy, cả địch cả ta đều bị dồn đến điểm nóng của chiến tranh, tức là những tình thế bắt buộc, những điều thuộc về bản năng của chiến tranh. Đối với ta, những chiến sĩ cách mạng đứng trước một thử thách nghiêm trọng này, tính cách của họ bộc lộ, được phơi bày và mỗi người đều đón nhận cái số phận riêng của mình như là kết quả chung cục vậy. Ngay cả Huế, cả đất nước ta cũng thế, cũng đón nhận cái kết quả chung cục như đối với từng người.
Là người cầm bút, tôi có cách nghĩ của mình về lịch sử và con người, đúng hoặc chưa đúng sẽ thuộc về bạn đọc phán xét. Được cổ vũ bằng những ý tưởng như thế, tôi bắt tay vào viết cuốn "Huế mùa mai đỏ" từ cuối năm 1978.
Nhưng mới viết được dăm chương, tôi đành bỏ dở vì lý do công việc. Hơn nữa, tôi cũng muốn nấn ná thêm, chờ sự thật lịch sử có một độ lùi thích hợp thì may ra cuốn sách mới được dễ dàng chấp nhận của người đọc. Cuối năm 1984 tôi mới viết tiếp. Tôi là người viết chậm chữ nghĩa ra trên trang giấy đối với tôi là khó khăn. Dù sao thì "Huế mùa mai đỏ" tập 1 cũng đã ra mắt bạn đọc. Tôi coi đó một lời chào kỳ tích của quân dân ta, như một nén hương để tưởng niệm bạn bè, đồng chí, đồng đội đã hy sinh vì nghĩa lớn.
Cuốn sách ra mắt bạn đọc có khen có chê là lẽ thường tình. Tôi sẵn sàng đón nghe những lời bình phẩm của bạn đọc nhất là bạn đọc của thành phố Huế. Dẫu vậy, tác phẩm vẫn chưa xong, tôi đang viết tập II và là tập kết thúc. Vẫn viết như mạch truyện đã viết ở tập I. Nhưng biết đâu, tôi lại phải phụ lòng mong đợi của bạn đọc, bởi lẽ như tôi đã nói, tôi viết thật khó khăn và chập chạp: Với lại, khi in xong tập I rồi, tôi đâm tiếc. Giá như bây giờ mới bắt đầu, tôi sẽ viết khác hơn. Chút hối tiếc đó chỉ có thể rút kinh nghiệm cho các tác phẩm nối tiếp.
XUÂN THIỀU
Tản mạn với "Huế mùa mai đỏ"
TRẦN THỨC
Những năm gần đây, Huế trở thành một "điểm hẹn" đầy sức hấp dẫn đối với một số nhà văn trong ý đồ tái hiện bức tranh lịch sử của dân tộc với quy mô sử thi. Sau Học phí trả bằng máu của Nguyễn Khắc Phục, Đường thời đại của Đặng Đình Loan, không thể không kể đến Huế mùa mai đỏ của Xuân Thiều.
Nếu như một số tác phẩm đã mang lại cho độc giả cái cảm giác bị (ngộ độc) vì phải "ăn tươi nuốt sống" quá nhiều chi tiết của hiện thực dưới dạng những "bản tin thời sự" chen chúc nhau trên từng trang sách thì với Huế mùa mai đỏ, Xuân Thiều có ý thức hơn trong việc "giải phóng" những tư liệu lịch sử ra khỏi bản thân nó để "lái" chúng đi vào quỹ đạo nghệ thuật. Và để tạo cho không gian lịch sử một chiều sâu tâm lý, tác giả đã tổ chức cho tuyến phát triển của lịch sử và tuyến cuộc đời của các nhân vật (với những mâu thuẫn và bi kịch riêng) đan chéo vào nhau, "giải thích" lẫn nhau.
Do các sự kiện được miêu tả gắn liền với một địa bàn cụ thể trong một thời điểm lịch sử cụ thể, người ta dễ liên tưởng đến "mối dây liên hệ" giữa hình tượng nghệ thuật này với nhân vật lịch sử nọ. Cũng vì thế, có thể nẩy sinh những phản ứng "bất lợi" ngoài phạm vi tác phẩm nghệ thuật. Song tôi nghĩ rằng điều ấy không quan trọng. Điều quan trọng là ở chỗ sau khi đã sử dụng tối đa cái "quyền lực" của mình, nhà văn có đạt được những hiệu quả thẩm mỹ tối đa trong việc phản ảnh cuộc sống một cách chân thực hay không?
Theo tôi, Xuân Thiều có khả năng thành công nếu như đối tượng chiếm lĩnh thẩm mỹ của tác giả không phải là "Huế mùa mai đỏ" mà chỉ là những số phận với những bi kịch khá điển hình của Tư Thiên, bà Đào, Mai, vv... Vượt ra khỏi giới hạn đó, ngòi bút của Xuân Thiều tỏ ra lúng túng trong việc tái hiện "bức tranh toàn cảnh chuyển động" của lịch sử.
Cái "bức tranh toàn cảnh chuyển động" chỉ hình thành với điều kiện tác giả của Huế mùa mai đỏ thiết kế được một kết cấu nghệ thuật có khả năng khái quát nhiều bình diện khác nhau của cuộc sống. Sự xuất hiện một đôi lần của Ngô Quang, chuẩn tướng ngụy, chưa đủ để làm sống lại những mâu thuẫn giai cấp gay gắt, cũng như sự góp mặt khiêm tốn của vài nhân vật là cán bộ hoạt động ở nội thành chưa đủ để nhận thức đúng đắn vai trò và sự trưởng thành của quần chúng trong cuộc chiến tranh nhân dân... Nói tóm lại, người đọc phải nghe "thuyết minh" về lịch sử hơn là được "hít thở" cái không khí lịch sử bằng những xung đột nghệ thuật. Rõ ràng, kết cấu nghệ thuật của tác phẩm còn quá "chật chội" so với qui mô của hiện thực.
Ngay trong việc xây dựng hình tượng nhân vật, mặc dầu tác giả có chú ý vận dụng qui luật "tăng cường giá trị", song, trừ một vài trường hợp như Tư Thiên, các nhân vật còn lại chưa "đủ tháng" để có thể đứng vững trên đôi chân của chính mình. Do đó, người đọc không cảm nhận được những giá trị trực tiếp nẩy sinh từ mối quan hệ tác động qua lại giữa các tính cách. Sự can thiệp hơi "quá đà" của tác giả đã hạn chế quyền chủ động của nhân vật. Trên thực tế tác phẩm, một số nhân vật đã bị tác giả đẩy lùi về ngôi thứ ba. Nếu như người đọc dễ dàng nhận ra Tư Thiên bởi cái chất "lính" trong suy nghĩ và hành động của nhân vật ấy, thì một số nhân vật khác, chẳng hạn như Hai Mẫn lại được phác họa một cách sơ lược, dễ dãi. Tác giả hoàn toàn có quyền sử dụng Hai Mẫn như một biện pháp nhằm làm sáng tỏ sự đối lập trong tư cách, đạo đức và tài năng với các nhân vật khác như Tư Thiên, Lưu Dương, song, để có một sức thuyết phục nghệ thuật, Hai Mẫn phải vượt ra khỏi ngôn ngữ trần thuật của tác giả để sống một cuộc sống riêng như một tính cách hoàn chỉnh. Chỉ tập trung vào khía cạnh "xấu" của Hai Mẫn, Xuân Thiều đã "hóa kiếp" cho nhân vật này thành một khái niệm, thông qua sự bình giá trực tiếp của chủ thể sáng tạo.
Nhiều chi tiết được nhà văn sử dụng một cách thiếu cân nhắc cũng làm cho bức tranh của hiện thực bị pha loãng bởi những yếu tố xa lạ với chính nó. Cái việc Mai "thường xuyên thư từ với bà Đào ở dưới Huế, viết cho mẹ hết sức chi tiết về ba mình" (tr. 87) là điều không được phép xảy ra trong hoàn cảnh ấy. Nó vừa không thực, vừa chứng tỏ một sự hiểu biết còn mơ hồ về mối liên hệ khắc nghiệt giữa hai địa bàn chiến lược: thành phố và vùng giải phóng. Khi tác giả viết: "Chuông nhà thờ gióng giả, chuông chùa ngân nga. Nhạc nổi lên. Những đôi trai gái ôm nhau nhịp nhàng uyển chuyển trong điệu van, hoặc nhảy cuồng loạn theo nhạc "Bit tơn", nhạc "Jaz" ngoại quốc" (tr. 266) thì người đọc không thể nào hình dung đúng cái "chất Huế" trong những ngày tết. Cái không khí đó là của Sài Gòn, của một thành phố nào khác chứ chưa bao giờ là của Huế trong những năm tháng ấy.
Nhiều chi tiết tưởng như "vặt vãnh", nhưng đáng tiếc đã làm cho người đọc nghi ngờ cái khả năng hiểu biết tường tận về đối tượng được miêu tả. Chẳng hạn như chiếc quần "gin" được sử dụng để tạo dáng "thành phố" cho một số nhân vật, thực ra, ở một khía cạnh nào đó, đã đẩy nhân vật sang một thời điểm khác chứ không phải thời điểm mà nhân vật đang sống. Tư Thiên đưa tay nhón một dúm hạt dưa thì được, chứ "đưa tay nhón một dúm dưa món" (tr. 265) để ăn với bánh tét thì lại là một động tác không bình thường, v.v...
Một vấn đề nổi lên trong tác phẩm thu hút sự quan tâm của nhiều người đó là cái nhìn của tác giả trước thực tại Mậu Thân. Nhiều ý kiến không tán thành cách kiến giải chưa chính xác của tác giả về vai trò của quần chúng nhân dân. Những ý kiến đó đã căn cứ vào quan niệm của nhân vật Tư Thiên (mà tác giả đặc biệt dành cho rất nhiều thiện cảm) khi nhân vật đó cho rằng: "...Cái quan trọng là thằng lính, Thằng lính nó đánh giỏi, đè bẹp dí thằng địch xuống thì quần chúng không phát cũng cứ động. Mà nó đánh lèm nhèm thì có phát vào đít người ta, họ không ì ra thì cũng đánh bài tảng lờ"(tr. 18). Rõ ràng quan niệm đó chưa đúng vì nó không nhìn thấy mối quan hệ hỗ tương "có qua có lại" giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Chính vì vậy, nó không thể giải thích vì sao "chỉ riêng một xã Quảng Thái đã đóng góp một trăm tấn gạo"(tr. 27) để chuẩn bị cho chiến dịch?
Song nói cho cùng thì không thể qui quan niệm của nhân vật thành quan niệm của tác giả mặc dù không thể chối cãi được rằng trong cách phát ngôn trong mỗi hành vi của nhân vật đều bộc lộ hoặc vụng về, hoặc kín đáo vai trò "trọng tài" của chủ thể sáng tạo. Theo tôi, sở dĩ có sự "ngộ nhận" đó vì Xuân Thiều xử lý chưa tốt mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật.
Sau cùng, điều tôi muốn nói là Xuân Thiều hay bất kỳ một nhà văn nào khác hoàn toàn có quyền khai thác những chất liệu của hiện thực theo cái nhìn nghệ thuật của mình, để phục vụ cho một ý đồ tư tưởng - thẩm mỹ nhất định. Cùng một đối tượng, có người nhìn nó ở góc độ tráng ca, có người nhìn nó ở góc độ bi kịch, không thể nói ai đúng, ai sai trong trường hợp này. Không nên đòi hỏi nhà văn nhìn cuộc sống như một nhà chính trị chuyên nghiệp, nhưng nhất thiết phải đòi hỏi ở hoạt động sáng tạo của nhà văn một sự trung thành tuyệt đối với sự thật.
Huế tháng 1-88
T.T.
(SH29/02-88)
NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.
NGUYỄN QUANG HÀTôi nhớ sau thời gian luyện tập miệt mài, chuẩn bị lên đường chi viện cho miền Nam, trong lúc đang nơm nớp đoán già đoán non, không biết mình sẽ vào Tây Nguyên hay đi Nam Bộ thì đại đội trưởng đi họp về báo tin vui rằng chúng tôi được tăng viện cho chiến trường Bác Đô.
LÊ HUỲNH LÂM(Đọc tập truyện ngắn “Thõng tay vào chợ” của Bạch Lê Quang, NXB Thuận Hóa, 11/2009)
LÊ VŨ(Đọc tập thơ Nháp của Ngọc Tuyết - NXB Thanh niên 2009)
NGÔ MINHÐọc lại Chiếu Dời đô, tôi bỗng giật mình trước sự vĩ đại của một quyết sách. Từng câu từng chữ trong áng văn chương bất hủ này đều thể hiện thái độ vừa quyết đoán dứt khoát với một lý lẽ vững chắc, vừa là một lời kêu gọi sự đồng thuận của triều thần với lời lẽ rất khoan hòa, mềm mỏng.
LÊ HUỲNH LÂMThơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.
KHÁNH PHƯƠNGNgay từ thuở cùng Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương viết tuyên ngôn Tượng trưng, Trần Dần đã mặc nhiên khảng khái công bố quan niệm, thơ bỏ qua những biểu hiện đơn nghĩa của sự vật, sự kiện, đời sống, mà muốn dung hợp tất cả biểu hiện hiện thực trong cõi tương hợp của cảm giác, biến nó thành không gian rộng lớn tiếp biến kỳ ảo của những biểu tượng tiềm thức. Như vậy cũng có nghĩa, nhà thơ không được quyền sao chép ngay cả những cảm xúc dễ dãi của bản thân.
NGUYỄN CƯƠNGSư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905 viên tịch năm 1997 hưởng thọ 93 tuổi. Lúc sinh thời Sư Bà trụ trì tại Chùa Hồng Ân, một ngôi chùa nữ tu nổi tiếng ở TP Huế, đã một thời là trung tâm Phật giáo ở miền Nam.
HỒNG NHU (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)
NGUYỄN ĐÔNG NHẬTĐọc xong tập sách do họa sĩ Phan Ngọc Minh đưa mượn vào đầu tháng 6.2009(*), chợt nghĩ: Hẳn, đã và sẽ còn có nhiều bài viết về tác phẩm này.
NGUYỄN HỮU QUÝ (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.
LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.
MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.
SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.
CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...
NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.
TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.
Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.
ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!