Huế của mệ Quyền

15:48 08/10/2009
PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

Nhà văn Vĩnh Quyền - Ảnh: hue.vnn.vn

Nói là Huế mình, là Huế của mình, Huế của miềng, nhưng thực ra là Huế của Vĩnh Quyền, Huế dưới con mắt của “mệ” Quyền. Có lẽ vì thế mà khác với những tập trước, anh chỉ ký tên là Vĩnh Quyền, thì lần nầy anh ký cả họ tên một cách đầy đủ là Ng.Ph.Vĩnh Quyền. Chính tác giả cũng tự xưng là “mệ” và giải thích rõ ràng rằng: “Đàn ông trong hoàng tộc thường được xưng là mệ” (tr.30).

Tập sách gồm 14 bài ký (trong đó có bài là bút ký, là tuỳ bút, là  tạp văn, là phóng sự và có cả những ghi chép) và 22 truyện ngắn, đều lấy Huế làm cột neo cho không gian nghệ thuật.Cho đủ câu chuyện xảy ra ở đâu, tác giả cũng đưa người đọc lần về với không gian trong tâm tưởng trong ký ức của con người xứ Huế. Ngay những dòng mở đầu cho một bút ký viết về văn hoá ẩm thực nhân dịp Festival, tác giả viết: “Người Huế tha hương thích gọi “Huế mình” là nhà, Festival là dịp những đứa con xa quê của Huế tìm về nhà ăn cơm... (tr.29). Là người thuộc dòng dõi Hoàng tộc, sinh ra và lớn lên ở Huế, học hành ở Huế, dạy học rồi viết văn, làm báo, mệ Quyền lúc nào cũng đau đáu một nỗi niềm về Huế. Anh viết bằng tâm thức Huế, nhìn mọi cái bằng con mắt của một người Huế, lập luận, phân tích, lý giải mọi điều bằng cảm quan của Huế. Khác với nhiều người, Quyền có một vốn tri thức về Huế khá dồi dào nhờ sức đi, sức đọc, sức sống gắn bó với Huế. Xuất thân là thầy giáo, là người sử dụng được nhiều ngoại ngữ, trong đó có Hán văn, giúp cho anh không chỉ sống với Huế trong hiện tại mà còn cả trong quá khứ và dự cảm ấm áp về tương lai.Trước hết, phải thừa nhận rằng, nhờ sức đọc mà mệ Quyền biết quá nhiều chuyện về Huế, điều mà không phải bất cứ người Huế nào cũng có được. Đó là những chuyện miên man về cây xanh (Ký ức xanh), về thời tiết (Chuyển mùa, Nắng qua đèo), về văn hoá ẩm thực (Về nhà ăn cơm, Đêm Huế bây chừ), về sông Hương về cầu Trường Tiền (Thanh kiếm và dải lụa, Ai cứu sông Hương), về các phủ đệ của các ông hoàng bà chúa (Qua miền phủ đệ), về du lịch Huế (Không gian Huế)... thậm chí, chỉ là một chút hoài niệm về người cha mẫu mực (Ô cửa văn khoa), một chút kỷ niệm với nhà văn nổi tiếng của xứ Huế Hoàng Phủ Ngọc Tường sau cơn bạo bệnh (Cội vàng), về những người sống xa Tổ quốc tự nguyện đóng góp xây dựng ngôi trường cho một làng quê nghèo (Trường ca An Bằng), hoặc hoài niệm về chiếc lu sành hứng nước mưa (Dưới mái tranh)...

Có thể nói rằng, ký của Quyền được viết bằng ký ức. Anh xoay trở ngòi bút trong vòm cong miền ký ức về xứ Huế, để cho quá khứ ùa về choáng ngợp cả tâm hồn, một quá khứ thâm đẫm ngọt ngào và cay đắng, bủa vây và xếp chặt từng ô ngăn trong tâm hồn, làm nên những gì anh có, từ lúc mới sinh ra cho đến bây giờ: “Tôi tin rằng cái nhìn đầu tiên của tôi ngay sau khi chào đời, ngoài mẹ tôi, là đã bắt gặp màu xanh cây lá dẫu tôi chẳng thể nào nhớ nổi điều ấy bởi nơi tôi sinh ra và lớn lên luôn được cây lá, hoa quả che chở, điểm tô, nuôi dưỡng. Nhìn qua ô cửa hay nhìn vào góc phòng đều có sự hiện hữu của màu xanh tươi thắm. Đó là một khu vườn cũ kỹ nằm trên một triền đồi ngoại thành Huế. Lớn lên một chút, tôi biết tưới mát cho những gốc hoa trước khi có thể tự mình tắm táp, biết trèo cây trước khi biết cưỡi xe đạp”. (tr.7). Người viết như tự soi tìm vào ký ức, những năm tháng tuổi thơ, những kỷ niệm với ông bà, cha mẹ, với mái nhà, mảnh vườn, với con đường làng quê, dòng sông, đồi thông, đền đài lăng tẩm... một không gian đậm đặc Huế chưa xa mà khó nhớ, không còn gần mà chẳng dễ phôi pha. Dưới vòm cong lung linh bụi mờ ký ức, anh nhìn đâu cũng thấy chuyện, nhìn đâu cũng có chuyện để nói, để viết, bởi lẽ “Tôi luôn hình dung Huế như thể một khu vườn không bao giờ biết hết những ngóc ngách” (tr.9). Hết soi tìm ký ức, anh lại đến lần giở thu tịch, sử sách cũ để đem ra đối chiếu, khám phá kiếm tìm, buộc quá khứ phải lên tiếng.

Dường như nghệ sĩ là người sống vượt ra ngoài thời gian, có quyền lực đối với cả quá khứ, điều khiển được quá khứ. Cách ăn mặc, lối sống của người Huế, những chuyện quá khứ phủ sâu dưới lớp bụi thời gian tưởng chừng như không còn ai nhớ nữa, như cuộc thao diễn thuỷ binh liên tục ba ngày đêm trên sông Hương để “dằn mặt” hải quân Tây Ban Nha vào năm 1645 của chúa Nguyễn Phúc Lan, chuyện vua Minh Mạng sắc dụ cho các hoàng tử (trong đó có các nhà thơ Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương) mỗi người trồng một cây thông, loại thông hai lá đặc trưng của thông Huế, tại Trai cung ở đàn Nam Giao, chuyện vua Khải Định xây An Định cung năm 1902 bằng tiền cá nhân chứ không “đụng đến kho nhà nước, bởi vì đây không phải là việc chung”... Kể chuyện sử sách, nhưng không để những con chữ vô hồn đem sắp xếp một cách vô cảm trong nghĩa địa của ngôn từ, mà được tác giả chắt lọc, đan cài cảm xúc, thổi tâm hồn mình vào để tạo sức sống cho từng chi tiết, có sức ấm lan toả đến tương lai. Những sự kiện hiện thực được phản ánh luôn nhỏ, mảnh nhưng vấn đề đặt ra có tầm khái quát lớn lao, buộc người đọc phải trăn trở, chiêm nghiệm. Hình tượng nghệ thuật nổi bật trong ký của anh là cái tôi tác giả, hiện lên giữa những hàng chữ âm thầm, buồn và đẹp: “Có lẽ tôi xuống ga Huế cùng lúc với mùa thu khẽ chạm vào thành phố. Tôi nhớ bầu không khí mát dịu này ngắn ngủi lắm. Hơi thu đến bất ngờ rồi lướt đi êm lặng, không kịp tạo mùa. Tôi đã để sổng nhiều thoáng thu qua trong tuổi thơ Huế của mình. Có lẽ vào tuổi bốn mươi người ta mới cảm nhận bước chuyển mùa tinh tế giữa nắng mưa trường kỳ của Huế.” (tr.61).

Ở phần truyện, tuy không xuất hiện các địa danh cụ thể trong tất cả các truyện, nhưng dù chuyện xảy ra ở đâu anh cũng lấy Huế làm không gian trung tâm, cùng soi nhìn từ Huế, có ít nhiều dính dáng đến Huế. Có chuyện diễn ra ở Đà Lạt, rồi nhân vật ra nước ngoài để sống, cuối cùng anh cũng đưa về Huế để giải quyết vấn đề (Bóng câu), hoặc xa Huế lâu ngày bỗng gặp cô bé đồng hương bán vé số (Đồng hương nhỏ), thậm chí vào tận Nam Bộ vẫn gặp người “thích nghe tiếng nước Huế” (Cầu sấu). Truyện của anh hầu hết đều có tính chất tự truyện. Những truyện hay, ấm áp tình người đều được trần thuật ở ngôi thứ nhất (Tháng bảy âm, Cái chết con chó hoang, Áo bà ba bà Ba, Ơ vàng ơ, Bữa tiệc mầu huyết dụ, Suất cho tình nhân, Đồng hương nhỏ, Cầu sấu), trong đó, có những truyện cái tôi chủ thể xuất hiện một cách cụ thể thông qua nhân vật tôi là một nhà báo (Suất cho tình nhân, Người xông đất). Ở những truyện nhân vật trần thuật xuất hiện ở ngôi thứ hai (Trăng núi, Chiều tím, Xuân chờ...), hoặc ở ngôi thứ ba (Cẩm nang, Ngọn đèn sinh mệnh, Lũ sớm, Chiếc nhẫn mắc cỡ, Bến đợi...) điểm mạnh được thể hiện ở sức tả và ngôn ngữ nhân vật sắc sảo, giầu kịch tính.

Truyện của Quyền không tập trung vào những vấn đề lớn lao như sinh mệnh của nhân loại, số phận của đất nước, của dân tộc (là những vấn đề thiết cốt anh từng đặt ra trong các tiểu thuyết lịch sử trước đây) mà chỉ quan tâm đến số phận con người. Những sự việc và con người xuất hiện trong trang sách của anh là những sự việc và con người mà ta có thể đã từng gặp trong đời sống hằng ngày. Mỗi chuyện chỉ nhằm nêu một vấn đề, một sự việc, đôi khi không có mở đầu, không có kết thúc hoàn chỉnh, độ dài chưa đầy ba trang sách. Một lối kết cấu hoàn toàn chủ động, thoải mái, linh hoạt và cởi mở. Đó có thể là những người hát tuồng trong cung nội biết giữ gìn nhân cách (Tháng bảy âm, những người sống dưới đáy của xã hội vẫn giữ được ân nghĩa (Lá chanh, Đồng hương nhỏ, những người dân biển đi câu mực đem sinh mạng của mình chơi trò ú tim với sóng, với gió trong biển đêm (Ngọn đèn sinh mệnh) hoặc những người có số phận ngặt nghèo bị xã hội ruồng bỏ như những bệnh nhân phong (Phía sau)... Cũng có những truyện kể về các mối quan hệ xã hội vui tuơi, tinh nghịch, nhẹ nhàng chỉ nhằm thoả mãn những khoái cảm thẩm mỹ cho con người (Trò chơi tháng giêng, Chiếc nhẫn mắc cỡ, Lũ sớm, Cẩm nang, Làn khói)...

Đặc biệt, anh không chỉ quan tâm đến con người, đến cảnh vật mà còn quan tâm đến loài vật, đồ vật. Người Huế thường sống hoà lẫn vào tự nhiên, vào cây cỏ muôn thú. Những con vật xuất hiện trong truyện dường như cũng có tâm hồn. Đó là con ngựa hồng trong Bóng câu, con chó vàng trong Ơ vàng ơ... Không phải ngẫu nhiên mà năm truyện liên tục mở đầu cho phần truyện trong tập đều có nhân vật trung tâm là chó. Đó là con Vá vô tình giết chủ (Tháng bảy âm), con chó hoang (Cái chết con chó hoang), con chó phốc tí hon trung thành chết theo chủ (Áo bà ba bà Ba), con Vàng trung thành với người chủ đã chết (Ơ vàng ơ), Con Bim ngoan hiền bị chủ lừa bắt làm thịt đãi khách (Bữa tiệc màu huyết dụ). Ngay cả những trang viết về loài vật sống gần gũi với con người này, cũng là những trang hồi ức về đời sống xã hội: “Những năm đầu 80 của thế kỷ XX ở thành phố Huế thật khó bói ra một bữa tiệc thịt chó” (tr,112). Truyện đi đến một kết thúc buồn: “Bây giờ, hơn hai mươi năm sau, trở lại Huế, trên đường đi loanh quanh, thỉnh thoảng tôi vẫn bắt gặp biển quảng cáo cầy tơ bảy món. Ôi, giá như những ngày đầu đất nước mở cửa làm ăn kinh tế mà mấy tiệm cầy tơ này cũng mở cửa kịp thời ở Huế, thành phố có truyền thống không ăn thịt chó, thì đâu đến nỗi con Bim phải chết uổng, ông Thạch phải mất trí, Mỵ phải đau lòng, tôi phải bất lực trước tất cả những oan khiên ấy?” (tr.114). Rõ ràng, chuyện vật nhưng thực ra là chuyện của số phận con người.

Cố nhiên, đây đó vẫn còn những nhược điểm về ngôn từ, về kết cấu truyện quá giản đơn, một vài đoạn ký còn mang chất thông tấn báo chí, thiếu sự gia công nghệ thuật cần thiết. Nhưng Huế mình là một thế giới, một chỉnh thể chỉ riêng mệ Quyền mới có. Với Huế mình, ta bắt gặp một Vĩnh Quyền hoàn toàn khác với Vĩnh Quyền trong những tiểu thuyết lịch sử và cả những bút ký, những tạp văn trước đây - một Vĩnh Quyền đậm đặc chất Huế, một mệ Quyền.

P.P.P
(190/12-04)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)