Hồi ức: con đường tử địa (*)

10:01 04/08/2009
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

(Ảnh: fahasasg.com.vn)

Với tác phẩm Đường 4 rực lửa của tác giả Đặng Văn Việt (Đại tá, nguyên chỉ huy mặt trận biên giới Đường số 4 - Cao Bắc Lạng 1947 - 1950) đã giúp một cái nhìn của “phía ta”. Nhưng với Hồi ức La Route Morte (Con đường tử địa) của Charles - Henry De Pirey (Chỉ huy phó đại đội Goum 60 tiểu đoàn Tabor số 1 (**)) góp phần cho ta thấy rõ cái nhìn của “phía địch”.

Với gần 300 trang, chia 33 chương, khổ lớn (16x24) - Hồi ức của De Pirey tái hiện lại khoảng thời gian thực dân Pháp tăng viện cho vùng biên giới phía Bắc (1949 - 1950), cho đến khi quân đội Nhân dân Việt Nam giải phóng Cao Bằng và chiếm lại vùng biên giới (10/1950).

Trong năm 1950, trước những cuộc tấn công ngày càng dồn dập, quyết liệt của quân đội Nhân dân Việt Nam - Con đường số 4 đã trở thành con đường tử địa của những binh đoàn viễn chinh Pháp chiếm đóng dọc biên giới Cao-Bắc-Lạng (nói theo tên sĩ quan chỉ huy: binh đoàn Lepage, Charton).

Trên con đường tử địa này, có những đại đội Tabor bị xoá sổ hoặc hầu như bị xoá sổ. Đại đội của thiếu uý De Pirey bị tổn thất nặng nề, cuối cùng còn lại De Pirey và dăm ba sĩ quan khác cùng một số lính Tabor.

Điều cần ghi nhận, như đại tá Đặng Văn Việt tâm sự “Chiến thắng của quân ta trên đường số 4 không hề dễ dàng, có những đơn vị đối phương đã chống trả quyết liệt”.

Hồi ức của De Pirey đã miêu tả hết sức chân thật cuộc “tận chiến” của đối phương, “những hành động giản dị” không hề có sự thêm thắt “mắm muối”: Cảnh chiến đấu trên mỏm 703, 477, Lèn Cốc Xá,... một bên quyết giữ, một bên quyết chiếm, sự mất mát quả cảm có khi cả hai bên “ngang nhau”; cảnh hành quân xuyên rừng trên những sườn núi sình lầy, đầy vắt và muỗi, áo quần tả tơi, mặt mày chân tay xây xát dọc ngang; cảnh tình đồng đội trong chiến đấu và những binh lính, sĩ quan bị thương được giúp trở về từ cõi chết; cảnh những binh lính sĩ quan cần cù, quả cảm, gắn bó, luôn đi đầu trước hàng quân... nhưng không bao giờ còn trở về! Cảnh cứu chữa thương binh quên mình của bác sĩ quân y Ejnalbert, bác sĩ Huard (người đã vinh dự được gặp Chủ Tịch Hồ Chí Minh).

Những miêu tả chân thật ấy, đáng nói ở chỗ: không để ngợi ca những gian khổ, hy sinh mất mát, mà đội quân viễn chinh đã trải qua, chịu đựng - mà muốn thông qua những diễn biến của một thất bại nặng nề, dù đã rất ngần ngại nhưng De Pirey đã không thể im lặng được nữa, vì ông đã tham gia vào “cuộc chiến tranh Đông Dương bẩn thỉu” của thực dân, vì những ánh mắt thi thể của đồng đội ngã xuống vô ích, nỗi đau khổ của những binh đoàn Charton và Lepage cùng nỗi ám ảnh của sự rút chạy khỏi vùng biên giới, rút những đồn bốt trên đường thuộc địa số 4... với De Pirey thì có tầm quan trọng đến mức chỉ riêng việc đó với Điện Biên Phủ, đủ cắt nghĩa kết cục bi thảm của cuộc chiến tranh Đông Dương của Pháp.

Với Con đường tử địa, hay qua bài học Cao Bằng, De Pirey đã nói với các nhà chính trị, quân sự và nhân dân mình - hãy can đảm làm một tổng kết: nước Pháp để lại một xứ Đông Dương rách nát sau tám năm của những trận chiến ác liệt... Nó đã tiêu phí 2.385 tỷ Frăng, mất 92.000 sinh mạng và bị mất mặt trên thế giới. Trước cái tài sản nợ đáng khủng khiếp ấy, tốt hơn cả là không nên ghi gì trong khoản cho vay vì để bảo vê danh dự - đó là cái giá phải trả cho suốt một quá trình.

Sự chân thật hay thú nhận, thức nhận! Từ Hồi ức của một sĩ quan Pháp, đã từng nhận Huân chương Bắc đẩu bội tinh, Thập tự Chương 4 sao, Huân chương Hàng không Pháp, 2 lần bị thương... quả đã đưa lại cho ta một cảm xúc phức tạp, đan xen. Ta đồng tình với De Pirey “Cuộc chiến tranh bẩn thỉu đã kết thúc! Hoà bình muôn năm! Mong sao nó bền vững”.

Một điều cần được nói thêm, người dịch tác phẩm này là đại tá Đặng Văn Việt, nguyên Trung đoàn trưởng trung đoàn 174 chủ lực Cao-Bắc-Lạng, nguyên chỉ huy Mặt trận Đường số 4 (1947 - 1950), ông cũng chính là tác giả của Hồi ký Đường số 4 rực lửa (được giải thưởng UBTQ HLHVHNT VN).

Đ.L
(183/05-04)


--------------------
(*)
Tác giả: Charles-Henry De Pirey. Người dịch: Đặng Văn Việt. Nhà Xuất bản Đà Nẵng, 4/2004. (Tử địa là chữ của Tôn Tử (trong binh pháp Tôn Tử, chương Cửu địa)).
(**)Lính mộ Marốc.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…