Hội Quảng Tri - một địa chỉ văn hóa quý hiếm của Huế

16:16 28/12/2015

LTS: Trong thời gian qua, báo chí trong nước đã phản ảnh về việc Hội Quảng Tri - nơi diễn ra các hoạt động khai trí ở Huế đầu thế kỷ 20 - được đề xuất phá dỡ, xây mới để làm …trụ sở UBND phường.
Đề xuất này khiến người dân Huế và những người yêu Huế nói chung, nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ Huế nói riêng lo lắng, nhiều ý kiến đề nghị cần cẩn trọng.

Hội Quảng Tri năm xưa, nay là UBND phường Phú Hòa

Tạp chí Sông Hương xin cung cấp một số tư liệu liên quan đến Hội Quảng Tri - Huế (còn gọi là Hội quán Quảng Tri, Nhà Đại Chúng) qua sách báo và các bài viết của một số nhà nghiên cứu Huế, để các cấp có thẩm quyền có cơ sở suy xét, đưa ra những quyết định hợp lòng dân.

Các tư liệu cho thấy: Nơi đây gắn liền với tên tuổi các chí sỹ yêu nước như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng…; các nhà hoạt động cách mạng như Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu, Hoàng Anh…; các tên tuổi văn hóa lớn như Đào Duy Anh, Đạm Phương Nữ Sử, Phạm Quỳnh, Nguyễn Lân, Đào Đăng Vỹ, Manh Manh Nữ Sỹ, Ưng Quả, Hoài Thanh …

Với thành phố Huế, đây từng là nơi Hội đồng Nhân dân Thuận Hóa họp lần Thứ nhất sau Cách mạng Tháng Tám 1945.

Nhiều ấn phẩm văn hóa đã xuất bản tại đây, trong đó nổi bật là Tập văn họa Kỷ niệm Nguyễn Du. Đây cũng là nơi đóng tòa soạn của một số tớ báo cách mạng, trong đó có tạp chí Đại Chúng, cơ quan văn hóa cứu quốc Trung Bộ…

Các tư liệu tuy còn ít ỏi do thời gian sưu tầm gấp rút, song cũng đủ cho chúng ta thấy Hội Quảng Tri - Huế, thật sự là một địa chỉ văn hóa quý hiếm của cả nước, rất đáng được bảo tồn và phát huy.


SÔNG HƯƠNG
 
 

Hội Quảng Tri ở Huế  

HỒ VĨNH

Hội Quảng Tri có trụ sở tọa lạc trên đường Hàng Bè, nay là số 51 Huỳnh Thúc Kháng, thành phố Huế. Hội Quảng Tri là một tòa lầu đứng soi bóng trên bờ sông Đông Ba. Ông Đào Đăng Vỹ đã từng làm Hội trưởng trong gần 15 năm: 1935 - 1949(1).

Lúc đầu những hội viên của Hội là những người bình thường có chút ít học thức vào Hội để trau dồi kiến thức. Về sau, dần dần có những người trí thức có bản lĩnh, có tinh thần yêu nước vào Hội để “gạn đục khơi trong” mở mang dân trí chờ cơ hội đứng ra giúp nước… Nơi đây tổ chức thường xuyên những buổi nói chuyện về văn hóa nghệ thuật, thời sự khoa học. Người ta còn nhớ trong những năm 1934 - 1935 ở đây nổ ra nhiều cuộc tranh luận về nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh; lần đầu tiên chủ nghĩa Duy vật được nói công khai và đã thắng chủ nghĩa Duy tâm. Đến năm 1936 đã có những cuộc họp của trí thức ở Hội Quảng Tri để lấy ý kiến đòi chính quyền thực dân Pháp phải tổ chức Đông Dương Đại hội theo tinh thần “dân chủ” của chính phủ Bình Dân mới lên cầm quyền ở Pháp(2). Ngày 23/1/1937, nhân danh chủ nhiệm báo Nhành Lúa, ông Nguyễn Xuân Lữ đã đứng ra tổ chức cuộc họp trù bị những người viết báo ở Huế tại Hội Quảng Tri. Hầu hết những người viết ở Huế đều đến dự. Buổi họp cũng đã cử ra Ủy ban trù bị Đại hội gồm Nguyễn Quý Hương (Báo Tiếng Dân), Nguyễn Xuân Lữ (Báo Nhành Lúa) và Phạm Bá Nguyên (Báo Kinh Tế Tân văn). Các ông Huỳnh Thúc Kháng, chí sĩ Phan Bội Châu, Tiêu Diêu Tử có gửi thư hoan nghênh hội nghị(3).

Riêng ông Đào Đăng Vỹ, nhà văn Nguyễn Vỹ trong tác phẩm “Tuấn - chàng trai nước Việt” có nhắc đến ông Hội trưởng này: “Buổi diễn thuyết ở Huế do một ông tên là Đào Đăng Vỹ, Hội trưởng Hội Quảng Tri chủ tọa, ông này hình như đã quen biết Tuấn từ lúc ông còn học trường Luật tại Hà Nội, và cũng là ký giả, trợ bút như Tuấn, trong tờ báo Pháp ngữ “La Patrie Annamite” của Tôn Thất Bình, rể Phạm Quỳnh”. Cuộc diễn thuyết bắt đầu 8 giờ tối thứ bảy. Thính giả đông nghẹt, ngồi chật ních trong cử tọa, lần đầu tiên có bà Đạm Phương đến dự. Bà là một nữ sĩ danh tiếng nhất của Đế Đô, một nữ học giả đã đứng tuổi giỏi cả Hán văn và Quốc văn, tác giả một số quyển sách có giá trị. Bà viết trong tạp chí Nam Phong và đăng thơ trong báo Tiếng Dân, ký tên Đạm Phương Nữ Sử. Lúc bấy giờ bà là Hội trưởng “Nữ công học hội” Huế. Đa số thính giả phụ nữ, gồm những nữ lưu trí thức ở Thần Kinh, là những phần tử tân tiến, không tán thành ý kiến của Tuấn về vấn đề phụ nữ đua xe máy. Họ cho rằng con gái đua xe máy như thế mới là tiến bộ.

Giữa lúc câu chuyện của Tuấn đang hăng say, (Tuấn ứng khẩu chứ không viết sẵn bài diễn thuyết) một vài thiếu nữ đứng dậy phản đối ý kiến của Tuấn. Tuấn bình tĩnh yêu cầu cho chàng nói hết xong rồi ai muốn chất vấn chàng sẽ xin trả lời. Nhưng hai cô yêu cầu Tuấn trả lời ngay. Ông chủ tọa Đào Đăng Vỹ phải can thiệp:

- Xin lỗi các cô, đây là Hội Quảng Tri mời diễn giả đến nói chuyện. Nếu các cô không đồng quan điểm với diễn giả, thì xin hôm khác sẽ tổ chức một buổi hội thảo chống lại. Hôm nay xin đừng ngắt lời diễn giả”. Thật thú vị khi lần tìm những dấu tích như thế, còn sót lại ít ỏi của từ điển gia người Huế Đào Đăng Vỹ(4).

Sau ngày Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, trụ sở Hội Quảng Tri là tụ điểm sinh hoạt nhộn nhịp nhất của trí thức Huế. Ngoài những cuộc họp mặt nghe thời sự cách mạng do các đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Anh, Tố Hữu, Hoài Thanh, Đỗ Nhuận, Phan Thị Nga… nói, còn có những buổi biểu diễn văn nghệ không chuyên của các tầng lớp nhân dân Huế(5).

Mùa xuân năm 1948 tại Hội Quảng Tri, ông Đào Đăng Vỹ tổ chức buổi nói chuyện do văn hào George Duhamel (Pháp) làm diễn giả; mở đầu bài diễn văn George Duhamel có lời lẽ dụ dỗ trí thức Huế “trở lại về nếp nhà xưa” và bị học sinh Huế đả đảo tẩy chay. Ông bắt đầu lập luận “Suy nghĩ là gì. Suy nghĩ là trở lại bước đường đã đi qua”(6). Bà Nguyễn Thị Mỹ Lý, cư dân ở phố Cửa Đông thuộc phường Phú Hòa, nay là đường Phan Đăng Lưu, thành phố Huế cho biết: “Năm 1955, tôi có đi xem ban nhạc Tân Hoa (ban nhạc Thiếu nhi trong đó có 5 người con của gia đình ông Tăng Duyệt) biểu diễn tại Hội Quảng Tri. Chương trình biểu diễn phần lớn hát những bài nhạc do Tinh Hoa xuất bản(7). “Hội Quảng Tri hoạt động đến năm 1968 thì suy yếu, sau năm 1975 hội giải tán. Ngôi nhà này sau năm 1975 được giao Phòng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp thành phố Huế. Năm 1989 giao Thành đoàn Huế làm Nhà Văn hóa Thanh Niên. Đến năm 2004, UBND phường Phú Hòa chuyển về đây. Ngôi nhà chính được cải tạo để phù hợp công năng mới. Còn lại hội trường và chiếc cổng nguyên gốc của Hội Quảng Tri vẫn giữ được đến nay. Mới đây, UBND phường Phú Hòa đã đề xuất với UBND thành phố Huế cho phá dỡ trụ sở hiện tại. Theo ông Tôn Thất Thái - Chủ tịch UBND phường Phú Hòa: “Trung tâm kiểm định chất lượng xây dựng cho biết phương án sửa chữa là không khả thi nên chúng tôi đề xuất được xây mới”. Nhà nghiên cứu Bửu Ý nói: “Công trình hiện đại thì ngày càng xây nhiều lên mà công trình của cha ông ngày xưa thì ngày một mất đi. Vì vậy, tôi đề xuất nên giữ lại để con cháu đời sau muốn tìm hiểu Hội Quảng Tri thì nó vẫn còn đó”(8).

Hội Quảng Tri là một di tích văn hóa một thời gắn bó quen thuộc của người dân Cố đô Huế. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho biết: “Trước đây Hội Quảng Tri có một thư viện với nhiều tài liệu sách vở quý giá như bộ Tứ khố Toàn Thư mà ở Việt Nam lúc ấy không nơi nào có. Nhờ số tài liệu sách vở này mà nhiều hội viên của Hội đã trở thành những nhà bách khoa của thế kỷ XX ở nước ta như các ông Đào Duy Anh, Đào Đăng Vỹ, Nguyễn Lân…”.

H.V
(SDB19/12-15)

......................................
(1) “Nhà văn Đào Đăng Vỹ và cuốn Bách khoa từ điển”, báo  Thế giới tự do, số 6, tập VII, tr.12. Xem thêm: Niên giám Văn nghệ sĩ Việt Nam và Hiệp hội Văn hóa Việt Nam, 1969 - 1970, Sài Gòn, 1970, tr.111.
(2) Nguyễn Đắc Xuân, “Hội Quảng Tri”, Báo Tin Huế, số 22, từ  1 đến 10/10/1986, tr.4.
(3) Nguyễn Văn Cường, “Phong trào Dân chủ 1936 - 1939 ở  Thừa Thiên Huế”, Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Sư phạm Huế, 2012, tr.52. Xem thêm Nguyễn Thành, Báo chí cách mạng Việt Nam 1925 - 1945, Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội, 1984, tr.178. Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế - Báo Thừa Thiên Huế, Lịch sử báo Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế (1930 - 2010), Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2014, tr.62.
(4) Dẫn theo Võ Sơn Trung, “Một người Huế làm bộ từ điển  bách khoa đầu tiên của Việt Nam”, Tạp chí Sông Hương, số 12, tháng 3/2014, tr.37.
(5) Nguyễn Đắc Xuân, “Hội Quảng Tri”, Bài đã dẫn, tr.4.  
(6) Nhiều tác giả, Huế một thời học sinh, Nxb. Thanh Niên, Hà  Nội, 1996, tr.19. Bùi Minh Đức, Từ điển Tiếng Huế, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc Học, 2004, tr.437.
(7) Ghi theo lời kể của bà Nguyễn Thị Mỹ Lý, ngày 01/07/2010.  
(8) An Bang, “Huế sẽ xóa bỏ dấu tích cuối cùng của Hội Quảng  Tri”, Báo Tuổi Trẻ, 26/11/2015, tr.16.  




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)

  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...

  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!