Hội nghị lý luận phê bình văn học Tam Đảo

14:38 09/06/2009
BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

Trước khi triệu tập hội nghị này có nhà LL-PB đã tuyên bố “Sẽ không dự hội nghị nếu có Trần Mạnh Hảo”. Có lẽ vì thế mà Hội Nhà văn đã phải soạn thảo “Quy chế Hội nghị LL-PB Tam Đảo” phát cho tất cả đại biểu với nội dung chính như sau:

1. Hội nghị có Đoàn Chủ tịch và Ban thư ký. Đoàn Chủ tịch điều khiển hội nghị thảo luận, bàn bạc đúng những chủ đề và yêu cầu đã đặt ra. Ban thư ký giúp việc Đoàn Chủ tịch ghi chép biên bản hội nghị, tiếp nhận các tham luận và đăng ký phát biểu chuyển Đoàn Chủ tịch, lưu giữ các tham luận, để sau này in thành sách kỷ yếu hội nghị.

2. Các đại biểu phát biểu theo nội dung chương trình hội nghị và sự sắp xếp của Đoàn Chủ tịch. Thời gian dành cho mỗi tham luận không quá 15 phút.

3. Các phát biểu, tham luận nên tập trung vào 3 chủ đề đã nêu trong giấy mời (Nhìn lại chặng đường phát triển văn học giai đoạn 1975 – 2000: Thành tựu và hạn chế, những bài học kinh nghiệm – tình hình lý luận phê bình văn học hiện nay. Thực trạng ưu, khuyết điểm; nguyên nhân, giải pháp – Những vấn đề đặt ra cho sự phát triển văn học hiện nay. Nâng cao chất lượng sáng tác, vấn đề, nhân vật, trách nhiệm nhà văn, vai trò của LL-PBVH, vai trò của tổ chức Hội). Bảo đảm tính chất khoa học, trí tuệ, văn hoá của Hội nghị, nên tập trung lắng nghe ý kiến người khác, có thể có ý kiến trao đổi, nhưng không cắt ngang lúc người khác đang phát biểu; trên tinh thần đoàn kết, thực sự cầu thị, nghiêm túc, thẳng thắn, không sử dụng bài nói để đưa ra những thông tin thiếu căn cứ, không đả kích cá nhân”.

Từ chiều 13-8, gần 10 chiếc xe ca, xe con đã chở đại biểu tới Nhà nghỉ Công đoàn Tam Đảo, tay bắt mặt mừng. Những “cặp xung đột” cùng ở một nhà, cùng ăn một bàn, nói cười rôm rả. Các nhà văn từ miền Nam và miền Trung ra khá đông (dù vé máy bay không mềm mấy): Anh Đức, Lê Văn Thảo, Chim Trắng, Mai Quốc Liên, Trần Thanh Đạm, Phạm Quốc Ca, Phạm Quang Trung, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Mạnh Hảo, Tô Nhuận Vỹ, Lâm Thị Mỹ Dạ, Thanh Thảo... Viện Văn học có cả chục người từ tân viện trưởng đến nguyên viện trưởng. Tạp chí Văn nghệ Quân đội có đến 6 người. Nhiều nhà văn ở Hà Nội và các tỉnh lân cận cũng đều có mặt. Nhà thơ kiêm “nhà hùng hồn” Trần Mạnh Hảo vừa xuống xe của ... báo Nhân dân, lập tức mở vali phát ngay hàng trăm tờ phôtô cỡ A4 và A3 những bài viết phê bình, và đơn kiện giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh và báo Ngày nay (in bài phỏng vấn N.Đ.M chỉ trích T.M.H), nhưng nơi gửi không phải là công an, viện kiểm soát hoặc toà án mà là Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương (!). Ngày hôm sau một vị khách không mời là Nguyễn Hoàng Đức từ Hà Nội lên cũng ôm một tập phôtô bài “bàn tròn” về triết luận nghệ thuật kiểu “hạ mục vô nhân” phân phát ở hành lang Hội nghị, rồi biến mất tăm. Nhà thơ Thanh Thảo sau khi nạp tham luận cho BTC liền đòi 200.000đ tiền “bồi đưỡng” và liền được chấp nhận. Cứ tưởng đấy là chiêu độc nhất vô nhị, hoá ra hơn 60 tham luận đều được bồi dưỡng với số tiền đó, dù được đọc hay không được đọc trong hội nghị.

Buổi khai mạc sáng 14.8, xuất hiện trên hàng ghế Đoàn Chủ tịch có Hữu Thỉnh, Hà Minh Đức, Trần Thanh Đạm, Anh Đức và Lê Quang Trang. Bàn thư ký có Lê Thành Nghị và Phạm Quang Trung (hai người này được gọi là “thư ký chuyên nghiệp” vì thấy trong Đại hội Nhà văn cũng giữ vị trí này). Bài đề dẫn của Tổng Thư ký Hội Nhà văn Hữu Thỉnh đọc rất hùng hồn nhận định LL-PB đã góp phần quan trọng trong tiến trình văn học nước nhà, đặc biệt là làm nổi bật tình hình văn học trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, nhưng vẫn còn những hạn chế chưa theo kịp bước đi của sáng tác vô cùng phong phú và sinh động. Ông cũng nhấn mạnh rằng, đây là cuộc gặp gỡ, trao đổi, tranh luận trên tinh thần dân chủ. Dù dàn máy âm thanh khá tốt, nhưng ông đọc đúng vào giờ mưa to nên ít ai nghe rõ. Suốt cả ngày 14, hơn 20 tham luận đã được trình bày tại hội nghị, đó là tham luận của Trần Thanh Đạm, Nguyễn Huy Bắc, Trần Đình Sử, Xuân Cang, Lê Quang Trang, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Trọng Tạo, Chu Xuân Sơn, Thanh Thảo, Lâm Tiến, Hồ Sĩ Vịnh, Trường Lưu, Nguyễn Văn Dân, Vũ Quần Phương, Phạm Tiến Duật, Anh Thơ, Hoàng Trinh v.v... Có nhiều ý kiến cho rằng, lý luận phê bình sau 1975 đã chấp nhận nhiều trường phái hiện đại thế giới từng vắng bóng tại Việt Nam, kể cả chủ nghĩa hiện thực không bờ bến mà trước đây đã bị phủ nhận; không khí cởi mở, khoan dung và đối thoại dân chủ được mở rộng (Trần Đình Sử). Nhà văn Xuân Cang lại đưa ra một nhận xét lạ: Không phải người đọc quay lưng với sách mà sách đang quay lưng với người đọc! Ông cũng cho rằng, các nhà phê bình không nên lấy tiêu chí là dạy dỗ người đọc mà nên đi cùng người đọc, vì người đọc hôm nay là Thượng đế. Nhà LL-PB Nguyễn Văn Hạnh băn khoăn: “LL-PB văn học cần đối thoại, tranh luận mới phát triển được. Tiếc thay ta vẫn chưa có được một không khí đối thoại, tranh luận bình thường, lành mạnh”. Một số ý kiến phê phán lối phê bình bốc thơm, bốc thối, câu khách làm người đọc mất tin vào phê bình. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho rằng, phê bình gần đây mang ý nghĩa thứ tư của chữ PHÊ là “dùng tay đánh vào mặt người khác”. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo chỉ trích cuốn Về một hiện tượng phê bình của nhiều tác giả dày gần 600 trang đã “đánh” anh là vô văn hoá. Nhà phê bình Chu Xuân Sơn bắt bệnh “phê bình suy lương tâm” quen thói bé xé ra to, lập hiện trường giả, đánh tráo khái niệm, xiên xẹo la lối, qui chụp chính trị, gây nhiễu và tạo ra những giá trị rởm. Vấn đề phê bình chuyên nghiệp và nghiệp dư cũng được tranh luận và dễ thống nhất ở chỗ phê bình phải đạt tới tính khoa học của một chuyên ngành. Nói như nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo là, thời nào cũng cần tính chuyên nghiệp cao huống hồ là thời đại khoa học phát triển như ngày nay; anh Trần Mạnh Hảo (T.M.H) có hơi dỗi khi một số người bàn về tính chuyên nghiệp trong phê bình. Nhưng tính chuyên nghiệp – chuyên ngành là có thật. Dẫu có đá bóng suốt đời trên bãi sông Hồng vẫn không phải là cầu thủ chuyên nghiệp. Nhưng một số người cũng băn khoăn về tính thiếu hấp dẫn và thiếu thuyết phục của lối phê bình hàn lâm.

Vấn đề phê bình sách giáo khoa văn học là một điểm nóng. Không ai khẳng định là sách giáo khoa không có sai sót, nhưng sự phê bình sách giáo khoa văn học đôi lúc quá thái và dẫn đến sự xúc phạm cá nhân không đáng có. Thư ký văn học của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng xuất hiện trong hội nghị này với một tham luận “rất là nhà giáo”, cho rằng: Ngòi bút dạy người nhưng ngòi bút cũng có thể giết người. Ông hy vọng các nhà văn, nhà LL-PB sẽ tận tâm, tận tình với giáo dục hơn nữa.

Hội nghị dành trọn buổi sáng 15 cho các đại biểu phát biểu tự do. Người mở màn là giáo sư Hoàng Ngọc Hiến. Ông nói điều chưa ai nói, đó là “tư cách người bị phê bình”. Ông chia sẻ với thái độ điềm đạm và quyết liệt của đạo diễn Đặng Nhật Minh sau khi bị “đánh”oan về phim Thương nhớ đồng quê bởi ông cũng là người bị đánh nhiều lần từ trong nước và cả ngoài nước. Ông cũng chia sẻ với giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh khi có người cho là “tiểu khí”. Ông dẫn lời Biêlinxki nói rằng người vĩ đại cũng có lúc tiểu nhân, đê tiện, nhưng cái lớn là họ nhận ra điều đó; nhưng ông sợ nhất là kẻ tiểu nhân, trâng tráo, đê tiện mà suốt cả đời không biết mình là tiểu nhân, trâng tráo, đê tiện. Ý kiến của Hoàng Ngọc Hiến rất ngắn nhưng được hội nghị vỗ tay tán thưởng đến hai lần. Nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn nói về sự quan ngại cho lối phê bình ít học, ít đọc, nhưng vì anh dẫn chứng kể lể quá dài dòng làm nhiều người thất vọng hơn là trước khi anh xuất hiện. Nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn cho rằng phê bình ta thiếu giọng điệu, nói như viết, viết như nói; nhưng khi anh đưa thông tin “17% nội dung 83% cơ thể” thiếu thuyết phục thì bị hội nghị cười ồ. Nhà LL-PB Phạm Xuân Nguyên lo sợ lối phê bình thiếu học thuật, cảm tính hoặc lý luận vô lý luận, lại thiên về góc nhìn chính trị, đạo đức, qui chụp. Anh nói rằng: Năm nay tôi 20 tuổi Đảng, và tôi lo sợ LL-PB đang là một sân chơi thiếu luật, và không công bằng. Tại sao anh T.M.H được nói đi mà cuốn sách Về một hiện tượng phê bình nói lại, lại không được phát hành? Chúng ta luôn hô hào viết, hô hào đổi mới, nhưng sẽ đăng ở đâu?” Nhà văn Văn Chinh nói khá dài, nhưng thiếu mạch lạc nên không ai hiểu anh định nói gì; đến lúc quá giờ qui định, Chủ tịch đoàn rung chuông anh vẫn tuyên bố là “tôi còn một ý nữa”. Nhà LL-PB Nguyễn Hoà tự nhận là thuộc phái phê bình đao búa, chỉ trích lối viết phê bình quá cũ của một số “cây đa cây đề”. Và làm “đứng tim” cử tọa khi anh nói rằng: “Nếu một ngày báo còn in những bài LL-PB của Trần Thanh Đạm, Hồ Sĩ Vịnh, Trường Lưu, cha con tiến sĩ Đỗ Văn Khang thì không có phê bình. Nếu một ngày nhà văn Trịnh Đình Khôi còn làm nhà LL-PB thì tôi rất lo ngại cho văn học chúng ta. Nhà LL-PB Phan Trọng Thưởng (Viện trưởng Viện văn học) từ tốn nói “Anh T.M.H đã nhầm Viện Văn học với Hội Nhà văn, bởi Viện chuyên nghiên cứu có tính hàn lâm chứ không phải là một bộ phận của Hội Nhà văn; anh Vũ Quần Phương khen một người không có bằng tiến sĩ lại viết phê bình nhiều hơn những người có bằng cấp cao ở Viện, chỉ làm vừa lòng một người mà làm mếch lòng nhiều người; thực ra Viện có nhiều nhà nghiên cứu có học hàm, học vị mà chính họ cũng có nhiều công trình có giá trị. Viện cũng chưa bao giờ chủ trương phê bình chạy theo khoa học thuần tuý như có người đã hồ đồ nhận xét”. Nhà văn Bùi Đình Thi to khoẻ đứng trước micro bị cánh truyền hình chiếu đèn quay phim không chịu nổi đã “quát” truyền hình “Không được chiếu đèn khi tôi đang nói” làm hội nghị cười ồ. Ông phê phán việc “ém nhẹm” một số cuốn sách văn học xuất bản gần đây. Cuốn Thượng đế thì cười đã in trọn trên mấy số tạp chí Nhà văn rồi, mà NXB Hội Nhà văn in thành sách lại bị xếp kho, để giám đốc NXB thuỗn mặt vì số tiền in sách không “quay” được. Ông khẳng định nghệ thuật không vi phạm luật cấm thì cứ để phát hành cho nhân dân và thời gian thẩm định. Cách nói bỗ bã của Bùi Đình Thi làm cho hội nghị nóng lên. Sau tiếng vỗ tay dài, ông trở về ghế ngồi lại có vẻ thiếu tự tin, hỏi to: “Nói có được không?” và nghe có tiếng “Được rồi” lẫn tiếng cười vui vẻ... Việc nói lên sự thật ở hội nghị, có người cho rằng “sự thật mất lòng”, có người lại bảo là “thuốc đắng giã tật”. Nhưng điều đó đã chứng tỏ tính dân chủ của hội nghị này.

Tổng kết Hội nghị, nhà thơ Hữu Thỉnh kết luận: “Khiêm tốn mà nói, là Hội nghị đã thành công bước đầu”. Điều đó có nghĩa là nhiều vấn đề học thuật, đi vào chiều sâu của LL-PBVH ta còn phải tiếp tục. Việc ra một tờ báo dành riêng cho LL-PB là một bức xúc của cả giới LL-PB. Nếu có “sân chơi riêng”, chắc LL-PB sẽ rôm rả hơn, chuyên sâu hơn, và mới mẻ hơn.

Hà Nội, 8-2003
B.C
(176/10-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LẠI NGUYÊN ÂNTrước khi vào đề, tôi phải nói ngay rằng trong thực chất, người đã thúc đẩy tôi viết bài này là nhà Việt học người Nga Anatoly Sokolof. Tôi nhớ là anh đã ít nhất một lần nêu với tôi: hiện tượng mà người ta đang gọi chung là “thơ Hồ Xuân Hương” nên được tiếp cận từ góc độ “mặt nạ tác giả”.

  • Ngôn ngữ văn học luôn mang dấu ấn thời đại lịch sử của nó. Đồng thời, thông qua ngôn ngữ tác phẩm người đọc có thể đánh giá được khả năng sáng tạo và phong cách sáng tác của người nghệ sĩ. Văn học Việt Nam từ sau 1975, đặc biệt là sau Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã có những đổi mới mang tính đột phá trên mọi phương diện, trong đó có ngôn ngữ. Viết về đề tài lịch sử trong bối cảnh mới, các nhà văn sau 1975 không chịu núp mình dưới lớp vỏ ngôn ngữ cũ kĩ, khuôn sáo như trước.

  • Nếu có thể nói gì về tình trạng ngày càng thưa vắng các tiểu thuyết đọc được hôm nay, hay nói một cách chính xác hơn là sự vắng mặt của tiểu thuyết hay trong vài thập kỷ qua, theo tôi trước hết đó là vấn đề tâm thể thời đại

  • ĐINH XUÂN LÂM      (Hướng về 1000 năm Thăng Long - Hà Nội)Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh sinh ngày 19 tháng 07 năm Quý Tỵ, niên hiệu Minh Mạng 14 (1833) tại xã Chân Mỹ, tổng Từ Vinh, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn Trực Mỹ, xã Yên Cường, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).

  • HOÀNG TẤT THẮNG1. Khái quát về địa danh học.

  • NGUYỄN HOÀNG ĐỨCKhông có một xã hội nào sống và phát triển được nếu không cậy trông vào khả năng phê bình của chính mình. Nói một cách thật dễ hiểu, như người Pháp khẳng nhận: "Người ta dựa trên những gì chống lại mình".

  • PHONG LÊ      (Tiếp theo Sông Hương số 250 tháng 12-2009 và hết) Sau chuyển đổi từ sự chia tách, phân cách đến hội nhập, cộng sinh, là một chuyển đổi khác, cũng không kém tầm vóc: đó là từ cộng đồng sang cá nhân; với một quan niệm mới: cá nhân mạnh thì cộng đồng mới mạnh; cá nhân được khẳng định thì sự khẳng định vai trò cộng đồng mới được bảo đảm.

  • ĐÀO THÁI TÔNNhư chúng tôi đã có lời thưa từ bài báo trước, trong Thơ quốc âm Nguyễn Du (Nxb Giáo dục, H, 1996), thay vì việc xem "bản Kinh" của Truyện Kiều là bản sách in bởi vua Tự Đức, Nguyễn Thạch Giang đã viết đó chỉ là những bản chép tay bởi các quan văn trong triều. Điều này là rất đúng.

  • PHẠM QUANG TRUNGHiện giờ báo chí chuyên về văn chương ở ta đã phong phú và đa dạng. Riêng Hội Nhà văn đã có các báo Văn nghệ, Văn nghệ dân tộc và miền núi, Văn nghệ Tre, và các tạp chí Tác phẩm mới, Văn học nước ngoài.

  • LÊ ĐẠT     Cầm tên em đi tìm

  • VŨ NGỌC KHÁNH        (Trích tham luận: “Thử bàn về minh triết”)

  • LTS: Thế giới đang xuất hiện trào lưu phục hưng minh triết sau một thời gian dài chối bỏ. Ở Việt cũng đã hình thành Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh Triết thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt . Tiếp theo cuộc Hội thảo lần thứ I tại Hà Nội “Minh triết - giá trị nhân loại đang phục hưng”, cuối tháng 11.2009 tại Huế, Trung tâm đã tổ chức Hội thảo với chủ đề “Minh triết Việt trong tiến trình lịch sử văn hóa Việt”.

  • Giấy dó là sản phẩm thủ công của cha ông ta để lại. Xưa kia làng Bưởi có nghề làm giấy dó nổi tiếng. Giấy dó được dùng vào việc ghi chép văn bản chữ Hán nôm, viết bút lông mực tàu...

  • Sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật- dù ở đâu, thời kỳ lịch sử nào cũng vậy- thường phụ thuộc vào 3 nhân tố quan trọng và phổ quát nhất: Sự phát triển của khoa học và công nghệ; Những chính sách chính trị (trong đó bao gồm cả những chính sách về văn hóa và nghệ thuật); Những nhà tư tưởng và nghệ sỹ lớn.  

  • TRẦN HUYỀN SÂMClaude Lévi-Strauss là một trường hợp hiếm thấy và khó lặp lại trong lịch sử nhân loại. Lévi chính là một cú sốc đối với nền văn minh phương Tây. Lý thuyết của nhà cấu trúc học vĩ đại này là sự hạ bệ hùng hồn nhất đối với tư tưởng thống ngự và độc tôn của xã hội toàn trị châu Âu; và là sự biện minh sâu sắc cho một mô thức đa văn hóa của nhân loại.

  • LÊ THÀNH LÂNTrong 4 năm liền, Tào Mạt lần lượt cho ra đời ba vở chèo tạo nên một bộ ba chèo lịch sử với tiêu đề chung là Bài ca giữ nước, đều do Đoàn Nghệ thuật Tổng cục Hậu cần dàn dựng và đều được nhận những giải thưởng cao.

  • PHONG LÊĐó là: 1. Từ sự phân cách, chia đôi của hai thế giới - địch và ta, chuyển sang hội nhập, cộng sinh, có nghĩa là nhân rộng hơn các tiềm năng, cũng đồng thời phải biết cách ngăn ngừa, hoặc chung sống với các hiểm họa. 2. Từ cộng đồng chuyển sang cá nhân, cá nhân trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển, nhưng cá nhân cũng sẵn sàng nổi loạn cho các ước vọng thoát ra khỏi các chuẩn mực của cộng đồng. Và 3. Từ phong bế (ở các cấp độ khác nhau) đến sự mở rộng giao lưu, hội nhập với khu vực và quốc tế, với sự lưu tâm hoặc cảnh báo: trong đi tắt, đón đầu mà không được đứt gẫy với lịch sử.

  • ĐỖ HẢI NINH(Nhân đọc tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng. Nxb Phụ Nữ, H, 2009; tác phẩm nhận giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2009)

  • PHẠM QUANG TRUNGHiện nay, vấn đề đổi mới thi pháp đang được nhiều người cầm bút quan tâm. Xin ghi lại cuộc trao đổi mới đây giữa tôi (PQT) với một nhà văn (NV) về vấn đề bức thiết này.

  • (Theo bách khoa thần học New Catholie)THẨM GIÁ PHÊ BÌNH Việc thiết định giá trị phán đoán trong phê bình đã được kiểm thảo một cách nghiêm khắc trong thế kỷ XX. Chẳng hạn, người ta cho rằng phê bình đã vượt lên cả tầm vóc “viên đá thử vàng” trong việc thẩm giá hội họa để dẫn dắt thị hiếu thưởng thức hội họa của công chúng.