Series hòa nhạc tương tác dành cho trẻ nhỏ dưới tám tuổi Bach Before Bedtime đang nỗ lực xóa bỏ khoảng cách cố hữu giữa nghệ sĩ và khán giả, làm cho môi trường âm nhạc cổ điển trở nên thân mật nhất trong khả năng có thể.
Bé Vivian Ventura McCormick đang ‘chỉ huy’ các nhạc công tại hòa nhạc Bach chúc bé ngủ ngon (Montreal) hôm 12/3/2015
Một buổi chiều tháng Ba lộng gió, người đi xem hòa nhạc đang đứng chờ bên ngoài Hội trường Tanna Schulich ở khu âm nhạc của Đại học McGill (Montreal, Canada). Một điều khác lạ ở đây so với các buổi hòa nhạc thông thường là xung quanh có rất nhiều xe đẩy trẻ em.
Ấy thế nhưng, vấn đề lại nằm ở chỗ lạ lùng ấy.
Đây là buổi hòa nhạc thứ năm trong mùa thứ tám của Bach Before Bedtime (tạm dịch: Bach chúc bé ngủ ngon), một series âm nhạc thính phòng tương tác rất thành công dành cho trẻ nhỏ dưới tám tuổi. Buổi hòa nhạc kéo dài 45 phút, trình diễn các trích đoạn nhạc cổ điển, và sau đó, các khán giả nhí được trực tiếp giao lưu cùng các nhạc công, xem xét các nhạc cụ của họ, và lắng nghe âm thanh của chúng ở cự ly gần.
Những đứa trẻ - được bố mẹ, hay ông bà, đưa đến– cũng tham gia chỉ huy dàn nhạc, hát, và chơi các dụng cụ gõ – và chúng tham gia với lòng háo hức thấy rõ. Sau khi buổi diễn kết thúc, chúng còn được uống nước trái cây và ăn bánh rồi mới về nhà để chuẩn bị cho giờ đi ngủ.
Theo giải thích của người sáng lập kiêm giám đốc nghệ thuật chương trình, Dorothy Fieldman Fraiberg, mục đích của chương trình là cho trẻ nhỏ làm quen với âm nhạc cổ điển trong một môi trường thân mật. “Tôi muốn lũ trẻ cảm thấy thoải mái khi tiếp xúc với các nhạc công. Chúng có thể làm nhạc trưởng, đồng thời được nghe những tuyệt phẩm nhạc cổ điển. Tất cả đều nhằm xây dựng mối quan hệ,” bà nói.
Fraiberg đã có nhiều thành tựu âm nhạc đáng kể: Bà hiện là nhà sáng lập kiêm giám đốc nghệ thuật của chương trình Nhạc Thính phòng Allegra (đang bước sang mùa thứ 34), và là một nghệ sĩ piano danh tiếng. Bà chia sẻ: “Tôi nghĩ cần phải đưa lũ trẻ tới thính phòng, một thính phòng nhỏ thôi, để chúng có thể trực tiếp sờ vào và cảm nhận các nhạc cụ. Và tôi cũng muốn nó trở thành một môi trường cởi mở, vui vẻ, không có gì đáng sợ sệt cả”.
Hội trường Tanna Schulich của Đại học McGill, với sức chứa khoảng 200 người, là một nơi như vậy. Khi thính phòng đông đủ cả phụ huynh và trẻ nhỏ thì nó trở thành một nơi thật ấm áp và vui vẻ.
Trong hầu hết các buổi biểu diễn nhạc cổ điển, giữa thính giả và nhạc công có một khoảng cách – khoảng cách này càng thêm lớn vì cung cách ăn mặc trang nghiêm của nhạc công. Và mọi người đều phải giữ im lặng. Nhưng với Bach chúc bé ngủ ngon, mục tiêu của Fraiberg là phá bỏ những hàng rào đó; các nhạc công được mặc quần áo ngày thường.
Mỗi buổi hòa nhạc đều có một chủ đề riêng – từ rạp xiếc, cho đến những trò chơi mùa đông, hay bị lạc trong vườn. Fraiberg cùng các đồng nghiệp (Reuven Rothman chơi contrabass, Jean René chơi viola và ghi-ta) lên kịch bản cũng như chọn trích đoạn âm nhạc phù hợp với từng chủ đề.
“Chúng tôi thường chọn cốt truyện rồi chuyển nó sang âm nhạc, chọn các trích đoạn phù hợp. Tìm ra được trích đoạn phù hợp từ một tác phẩm lớn thôi cũng đã rất gian nan rồi,” Rothman nói.
Theo Alita Kennedy L’Ecuyer, nghệ sĩ chơi kèn fagôt trong nhóm ngũ tấu, thì việc lồng ghép những câu chuyện thú vị với trẻ nhỏ vào âm nhạc cổ điển là một phương pháp hữu hiệu giúp trẻ học nhạc. “Khi đưa các em vào bối cảnh một câu chuyện, chúng sẽ lắng nghe, và lắng nghe chăm chú hơn. Dù chúng vẫn là trẻ con, nhưng điều đó sẽ giúp chúng phát triển các kỹ năng cần thiết để hấp thụ nhạc cổ điển,” chị nói.“
Càng để cho trẻ tiếp xúc với âm nhạc sớm bao nhiêu, chúng sẽ càng quan tâm tới âm nhạc bấy nhiêu,” René bổ sung.
Hình minh họa Bà Ngồi Xuống và Ông Trật Tự được đặt ở hai đầu sân khấu, nhưng hầu như hai nhân vật này không cần phải “suỵt suỵt!” để ra hiệu cho lũ trẻ im lặng. Dĩ nhiên là trong đám thính giả nhí thi thoảng vẫn có tiếng ồn, song không đáng kể. “Sở dĩ như thế là bởi vì lũ trẻ rất ngoan, và chúng cũng đang bị âm nhạc hút hồn nữa,” Rothman nói. Đối với các nhạc công, như thế đã là mãn nguyện rồi.
Fraiberg lần lượt giới thiệu từng nhạc công xuất hiện trên sân khấu. Mỗi người lại chơi một đoạn nhạc ngắn liên quan đến nhạc cụ của mình. Chẳng hạn, Kennedy L’Ecuyer chơi một đoạn trong tác phẩm Phù thủy tập sự của nhà soạn nhạc Paul Dukas người Pháp. “Đây là bản nhạc nền trong bộ phim hoạt hình Fantasia nên rất nhiều em đã xem và biết đến nó,” bà nói. “Vậy nên tôi chơi đoạn nhạc này là để cho các em biết nhạc cụ nào đã tạo ra nó.”
Các bậc phụ huynh đều hết lời ca ngợi Bach Before Bedtime vì chương trình đã gỡ đi hàng rào ngăn cách giữa thính giả và nhạc công cũng như những tương tác mà chương trình mang lại. Hầu hết đều cho biết con em họ rất hào hứng với cơ hội được trực tiếp tiếp xúc với các nhạc cụ và nghe chúng ở cự ly gần. Nhiều gia đình còn thường xuyên cho con tới tham dự các buổi hòa nhạc này, theo bà Fraiberg.
Cặp vợ chồng Jonathan Shohet và Trina Rehel đưa bé Caleb Shohet, bốn tuổi, tới tham dự buổi hòa nhạc hồi tháng Ba. Shohet kể lại: “Thằng bé như bị thôi miên vào đó. Từ lúc được chạm tay vào các nhạc cụ là nó đã thích mê đi rồi.” Cả gia đình lại dự định đến buổi hòa nhạc tiếp theo vào tháng Năm tới đây.
Sylvie Bismuth thì tới cùng con gái bốn tuổi, Lily Kaminsky, và mẹ chồng, một tín đồ âm nhạc. Chị cho biết các nhạc công rất thân thiện, gần gũi – và điều đó khiến cô bé Lily thích mê đi.
Thường thì Fraiberg sẽ đóng vai người kể chuyện, nhưng vì kịch bản cho buổi hòa nhạc tháng Ba vừa qua lấy từ Cuộc phiêu lưu trong vòng xoắn ốc, một cuốn truyện trẻ em của nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật kiêm giám tuyển Deborah Goodman Davis, nên lần này Davis là người dẫn chuyện. Chị đọc các trích đoạn trong sách, về một gia đình tới thăm bảo tàng Solomon R. Guggenheim ở New York, nhưng chuyến đi đã diễn ra không như mong đợi khi một đứa trẻ cùng chiếc xe đẩy của cậu bé bị trượt không phanh xuống dốc hình xoắn ốc ở bảo tàng, rồi bị treo lơ lửng trên một tác phẩm được trưng bày ở đó.
Cuốn sách được minh họa bằng hình ảnh những tác phẩm trưng bày ở Bảo tàng Guggenheim: Khi Davis đọc còn các nhạc công chơi nhạc, hình ảnh các tác phẩm đó được chiếu lên tường trong hội trường.
Rõ ràng, các nhạc công đều rất thoải mái khi tiếp xúc với đám thính giả nhỏ tuổi, và họ không nề hà việc để chúng chạm tay vào những nhạc cụ quý giá của mình. Rothman, cha của ba đứa trẻ, cho biết: “Thật tuyệt khi để trẻ nhỏ tiếp xúc với nhạc cụ trực tiếp như thế. Nhạc cụ của tôi là đồ cổ có giá trị lắm đấy, nhưng tôi rất muốn chúng có được cái trải nghiệm ấy, nó thật hào hứng và ấn tượng. Tôi không muốn chúng sợ sệt, mà phải hào hứng. Tôi thích như thế. Tôi cảm giác như mình vẫn còn một chút trẻ thơ trong người.”
“Hòa nhạc không phải là nơi bạn chỉ đến ngồi và nghe. Một vấn đề lớn với nhạc cổ điển là khoảng cách giữa thính giả và nhạc công – mà với tôi, điều đó đồng nghĩa với cái chết của tương lai âm nhạc,” Rothman nói thêm.
“Chúng tôi ở đây là để kiến tạo một mối liên hệ thân tình càng sớm càng tốt, và thật vui khi thấy mối liên hệ ấy thật mạnh mẽ,” ông nói. “Ngay cả khi các em không chú ý lắng nghe thì âm nhạc vẫn chảy tràn trong các em, và khi các em thực sự chú tâm, thì những cái miệng xinh xinh cứ há ra. Thật tuyệt vời. Xét theo nghĩa nào đó, chúng tôi cũng đang tạo nền móng phát triển cho các gia đình này đấy chứ.”
Kết thúc phần trình diễn nhạc cổ điển, các nhạc công ngồi xuống ghế, đầu đội các bộ tóc giả sặc sỡ, rồi chơi một bản thuộc dòng pop. Lần này, họ chơi nhạc nền bài 59th Street Bridge Song của Simon & Garfunkel. Bài hát mở đầu bằng những lời sau: “Chậm thôi, cậu kéo tớ đi nhanh quá” – quả thực rất hợp với câu chuyện về một cậu bé bị trượt trong vòng xoắn ốc.
“Khi chúng tôi đội tóc giả lên là lúc chuyển sang các dòng nhạc jazz hay pop,” Kennedy L’Ecuyer cho biết. “Như thế cũng rất hay, bởi nó cho thấy, tuy chúng tôi biết chơi nhạc cổ điển, song chúng tôi không chỉ bị giới hạn ở nhạc cổ điển… Với bộ tóc giả trên đầu, chúng tôi có khác gì các ngôi sao nhạc pop đâu cơ chứ - mà điều đó còn thể hiện một khía cạnh khác ở các nhạc cụ của chúng tôi nữa.”
“Bach Before Bedtime là một dự án tuyệt vời,” chị nói. “Không có nhiều những chương trình như thế này ở Montreal, nên việc mà Dorothy đang làm, theo tôi thấy, là rất quan trọng cho tương lai của âm nhạc cổ điển. Chị ấy giải quyết vấn đề từ gốc rễ: nếu xây dựng được một mối tình thân giữa trẻ nhỏ và nhạc cổ điển, thì khi lớn lên, chúng sẽ biết nghe nhạc cổ điển với đôi tai của nhà phê bình.”
Bùi Thu Trang dịch (Theo montrealgazette.com)
Nguồn: Tia Sáng
Trên hành trình vòng quanh nước Mỹ và ghi lại những bức ảnh cho cuốn sách mang tên “American Farmer” (tạm dịch: Nông dân Mỹ) của mình, Paul Mobley đã rất sốc khi biết rằng trong số những người làm việc trên các cánh đồng mà anh từng đi qua, có rất nhiều người đã trên 100 tuổi.
Mark Taimanov là trường hợp hiếm hoi trên thế giới khi cùng đạt tới đỉnh cao ở hai lĩnh vực là cờ vua và nhạc cổ điển.
TUỆ ĐAN
“Ngôn ngữ bị bão hòa và trở nên có sức sống thông qua thời gian”
(Jorge Luis Borges)
JEAN-PAUL SARTRE (Nhật Vương dịch)
Jean-Paul Sartre (1905 - 1980), nhà văn Pháp, là một trong số những gương mặt tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh, thường được vinh danh là một trong số các triết gia hàng đầu của nền triết học Pháp thế kỷ XX.
TUỆ ĐAN
Nguồn mạch của tác phẩm tuôn ra từ sự cô đơn của nó, từ đó nó bắt đầu và tìm kiếm một tác lực cho sự khởi đầu ấy.
(Maurice Blanchot)
YẾN THANH
Thực thể Việt là một cấu trúc văn hóa động, trong đó nhiều yếu tố bản sắc chỉ được hình thành thông qua giao lưu với quốc tế, hấp thụ từ tinh hoa văn hóa nhân loại để biến “cái bên ngoài” trở thành “cái bên trong”.
LE VIEUX SIMON
Hồi ký
Trong thời gian bị lưu đày ở đảo Réunion (1916 - 1945) hoàng tử Vĩnh San (tức cựu hoàng Duy Tân) đã có nhiều hoạt động văn hóa và chính trị.
PHẠM TẤN XUÂN CAO
Chiều ngày 13/10/2016, Hội đồng Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã chính thức công bố giải Nobel Văn chương thuộc về nhạc sĩ, ca sĩ, nhà thơ người Mỹ Bob Dylan với thông cáo giải thưởng được trao vì những phát kiến của ông trong việc tìm kiếm những cách diễn đạt thi pháp mới lạ cho truyền thống âm nhạc Mỹ.
Hòn đảo Cuba bé nhỏ và nghèo nàn hiện là một trong những nơi sản xuất ra các vũ công trẻ xuất sắc nhất thế giới. Nhà hát Ballet Hoàng Gia và Ballet Quốc gia Anh, San Francisco Ballet và New York City ballet đều có những diễn viên múa chính người Cuba. Làm thế nào một quốc gia nghèo nàn bị cô lập với 11 triệu dân có thể làm được điều đó?
Chúng ta đều biết rằng các nhân vật nổi tiếng thế giới như Albert Einstein, Benjamin Franklin, Natalie Portman, Ellen DeGeneres, Gandhi, Paul McCartney, Charles Darwin và Betty White cùng chia sẻ một điểm chung với nhau - đó chính là họ đều là những người có chế độ ăn dựa trên thực vật. Và có bao giờ bạn có hỏi lý do vì sao không?
Sau nhiều thế kỷ, các bức tường từng bảo vệ các Hoàng đế Trung Quốc trong Tử Cấm Thành đã bắt đầu suy yếu, gạch bị long ra và bề mặt đã có nhiều vết nứt.
TAMARA MOTYLEVA
Nhờ Tạp chí Văn học Obozreniye đăng tải "Những tư tưởng không hợp thời" của Maxim Gorky, chúng ta đã có thể hiểu nội dung sự khác biệt giữa ông với Lênin và những người Bônsêvích trước và sau cách mạng tháng 10.
Cách đây 75 năm, ngày 7/11/1941, nhân kỷ niệm 24 năm Cách mạng Tháng Mười, nước Nga đã tổ chức một buổi diễu binh, bất chấp những khó khăn, phức tạp của thời chiến khi quân phátxít Ðức đang ở cửa ngõ Moskva.
TUỆ ĐAN
Thân xác hiện hữu để rồi đem lại sức nặng và hình dạng cho sự tồn tại của chúng ta.
O. P.
Judith Lorber, sinh năm 1931, là giáo sư hưu giảng các môn Xã hội học và Phụ nữ học tại Trung tâm Tốt nghiệp thuộc Đại học Thành phố New York và Học viện Brooklyn. Bà là nhà lí thuyết nền tảng của kiến thiết xã hội về giới tính và đóng một vai trò then chốt trong việc tạo dựng và chuyển hóa ngành giới tính học.
PHẠM HỮU THU
Trong gần một tháng được ở “xứ sở chuột túi”, tôi có dịp đi đó đi đây và tiếp xúc với nhiều người, chủ yếu là kiều bào ta ở vùng Cabramatta - nơi được mệnh danh là thủ phủ của người Việt ở Australia.
NGUYỄN THỊ TUYẾT
Từ những chuyến tàu cưỡng bức xuyên Đại Tây Dương, người da đen đặt chân lên đất Mỹ với một nhân vị mới: người nô lệ. Toni Morrison ý thức sâu sắc về những cướp đoạt ấy, toàn bộ tác phẩm của bà không chỉ là lịch sử của người da đen (hơn ba thế kỷ) với tất cả những vấn đề khởi đi từ hệ lụy của màu da, mà quan trọng hơn, là nỗ lực mở ra một phả hệ mới, phả hệ của lòng nhân; và trên nền tảng bảo bối là bản sắc văn hóa, lịch sử tổ tiên, mỗi cá nhân phải giải thoát nhân vị nô lệ trong chính bản thân mình.
Ngày 17 tháng Chín vừa qua, tại Trung Tâm Nghệ thuật và Nghiên cứu Bétonsalon, thuộc trường đại học Paris VII-Didérot, thuộc quận XIII, Paris đã tổ chức triển lãm và hội thảo bàn tròn về các nghệ sỹ đương đại viễn xứ với chủ đề “Anywhere But Here”, trong đó có vua Hàm Nghi của Việt Nam.
Nữ văn sĩ nổi tiếng Chilê, Isabel Allende (Isabên Agiênđê) trả lời phóng viên tạp chí Cuba International (1987) trong chuyến đi thăm Cuba của bà.
BỬU Ý
Nhìn học sinh ở Pháp, ta có cảm tưởng họ chơi và nghỉ nhiều hơn học.