Nghị quyết số 68/NQ-CP của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 đã đề cập mức hỗ trợ dành cho diễn viên, nghệ sĩ hưởng lương hạng bốn trong các đơn vị nghệ thuật công lập. Đây được xem là bước đi thiết thực, ý nghĩa, góp phần kịp thời chia sẻ khó khăn cho đội ngũ nhân lực trẻ ở các loại hình nghệ thuật biểu diễn.
Nhiều nghệ sĩ trẻ của bộ môn chèo đam mê với nghề. Ảnh: Đào Anh
Tháng 6/2020, khi vừa chính thức được nhận vào Nhà hát Tuồng Việt Nam, nghệ sĩ trẻ sinh năm 1994 Nguyễn Đình Tiến đã phải đối mặt với đại dịch Covid-19. Không có suất diễn, không có nguồn thu, sống xa gia đình, chỉ có đồng lương ít ỏi gần ba triệu đồng/tháng dành cho diễn viên hạng bốn, Tiến đành xoay xở làm thêm việc bán mỹ phẩm trực tuyến để trang trải cuộc sống. Còn Đặng Thị Thảo, nữ diễn viên 24 tuổi của Nhà hát Cải lương Việt Nam sau hai năm về nhà hát đã phải làm thêm công việc bán thời gian liên quan tư vấn, giới thiệu sản phẩm để đối phó đại dịch. Nhiều đồng nghiệp trẻ của họ ở các đơn vị nghệ thuật biểu diễn cũng phải quay sang làm đủ thứ nghề như chạy xe ôm, làm nhân viên giao hàng (shipper), bán đồ ăn online để kiếm sống.
Khi hoạt động nghệ thuật biểu diễn trực tiếp bị tê liệt trong “bão” Covid-19 cũng là lúc đời sống của các nghệ sĩ gặp vô vàn thách thức, nhất là những người giữ chức danh nghề nghiệp hạng bốn. Họ chủ yếu là những nghệ sĩ chưa có thâm niên, mức lương khởi điểm thấp hơn mức lương tối thiểu vùng, cuộc sống bình thường vốn đã khó khăn cho nên càng chông chênh trong mùa dịch. Đó là lý do những nghệ sĩ là đạo diễn nghệ thuật, diễn viên, họa sĩ ở các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động nghệ thuật biểu diễn phải dừng hoạt động từ 15 ngày trở lên để phòng, chống dịch Covid-19 trong thời gian từ 1/5/2021 đến 31/12/2021 đã được Nghị quyết số 68/NQ-CP xác định là đối tượng nhận mức hỗ trợ một lần 3.710.000 đồng/người. Diễn viên Nguyễn Đình Tiến cho hay: Với nhiều người, đây có thể chỉ là số tiền nhỏ nhưng với những nghệ sĩ mới vào nghề, nhất là các nghệ sĩ theo nghệ thuật truyền thống, như tuồng - loại hình kén người xem, thì đây là khoản hỗ trợ đáng kể để nhẹ bớt gồng gánh áo cơm.
Lao động nghệ thuật là lĩnh vực đặc thù. Để có được một tài năng nghệ thuật, nhất là đối với các loại hình kén khán giả như tuồng, chèo, cải lương, giao hưởng..., đòi hỏi phải trải qua quá trình đào tạo kéo dài, bài bản từ nhỏ. Những nghệ sĩ trẻ dũng cảm đi theo con đường gìn giữ nghệ thuật cha ông phần lớn là những người có đam mê và tình yêu chân chính với di sản nghệ thuật nước nhà. Tuy nhiên, nhiều đợt dịch ập đến, kéo dài, đời sống biểu diễn nghệ thuật bị ngưng trệ khiến tâm lý của các nghệ sĩ không khỏi hoang mang, xáo trộn. Nhà hát Múa rối Việt Nam, Nhà hát Chèo Việt Nam, Nhà hát Tuồng Việt Nam và một số đơn vị khác đã có không ít diễn viên trẻ bỏ nghề. Trong bối cảnh ấy, theo đánh giá của đại diện lãnh đạo nhiều đơn vị nghệ thuật, chính sách hỗ trợ của Chính phủ không chỉ là sự tiếp sức mùa dịch mà còn góp phần “giữ chân” nghệ sĩ trẻ.
Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hiện nước ta có hơn 2.000 viên chức là nghệ sĩ hạng bốn công tác ở khoảng 100 đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động nghệ thuật biểu diễn, không bao gồm các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang. Họ đa phần là những người trẻ được xác định sẽ trở thành một phần trong lực lượng nòng cốt của các đơn vị nghệ thuật. Bên cạnh biểu diễn, nhiều người trong số họ còn làm nhiệm vụ bảo tồn, gìn giữ những loại hình nghệ thuật làm nên chiều sâu văn hóa Việt Nam. Quan tâm tới họ cũng là vun đắp cho sự phát triển của văn hóa nghệ thuật. Nói như Nghệ sĩ Ưu tú Xuân Bắc, Giám đốc Nhà hát Kịch Việt Nam: Trong lao động nghệ thuật, bên cạnh năng lực sáng tạo tốt còn cần có cảm xúc tốt. Nếu để những tài năng nghệ thuật, những nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú trong tương lai bỏ nghề là điều vô cùng đáng tiếc. Vì thế, mọi sự hỗ trợ, động viên trong lúc này đối với những người gặp khó khăn trong đại dịch đều là đúng đắn, cần thiết và vô cùng đáng quý, đáng trân trọng.
Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "
Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.
Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H
Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.
Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".
(Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.
Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?
Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.
Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.
Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!