PHƯỚC VĨNH
Hình ảnh Hồ Chủ tịch là nguồn cảm hứng sáng tạo đối với nhiều nghệ sĩ tạo hình Việt Nam.
Tem thư vẽ Bác Hồ đầu tiên của danh họa Nguyễn Sáng - Ảnh: internet
Chân dung Bác Hồ được đưa vào tem thư Việt Nam cuối năm 1945, con tem đầu tiên do họa sĩ Nguyễn Sáng sáng tác, như một thông điệp của nhân dân Việt Nam công bố với thế giới chân dung vị lãnh tụ dân tộc, đánh dấu một giai đoạn lịch sử của đất nước.
Những tác phẩm hội họa sớm nhất thể hiện Hồ Chủ tịch đã hình thành từ mùa xuân 1946, ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công. Lúc ấy dù rất bận rộn, Người vẫn đồng ý cho ba nghệ sĩ tạo hình là Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Thị Kim được vẽ và nặn tượng.
![]() |
Tác phẩm “Hồ Chủ tịch làm việc ở Bắc Bộ Phủ” của Tô Ngọc Vân |
Bức sơn dầu nổi tiếng “Hồ Chủ tịch làm việc ở Bắc Bộ Phủ (1946)”, họa sĩ Tô Ngọc Vân đã thể hiện sinh động chân dung Người, thể hiện sự hòa hợp giữa thể hình nhân vật và thời gian lẫn không gian lịch sử. Lúc ấy Người vừa từ núi rừng Pắc Pó trở về, còn mang đầy dấu ấn của nhiều năm tháng bôn ba gian khổ hoạt động cách mạng. Dáng Người gầy trong bộ kaki giản dị, đi đôi giày dân tộc Nùng gọn gàng, gương mặt trầm tư âu lo vận nước. Những nét vẽ sử dụng bút pháp khỏe, sinh động, đã truyền cảm mạnh mẽ đến người xem.
Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung lúc đó dùng thể loại khắc gỗ để sáng tác bức tranh nổi tiếng “Bác Hồ năm 1946”, thể hiện hình ảnh Hồ Chủ tịch với nét mặt nhìn nghiêng, một phác hình lãnh tụ rất đẹp, khái quát sâu, vầng trán cao, vòm tóc, chòm râu, đôi mắt linh lợi. Nguyễn Thị Kim thể hiện Người qua bức tượng bán thân trong tư thế chú tâm vào công việc, toát lên phong thái của một nhà lãnh đạo xuất chúng, giản dị.
Về sau, họa sĩ Tô Ngọc Vân còn hai lần vẽ Hồ Chủ tịch. Trong đó có bức vẽ vào tháng 3/1951, thể hiện hình ảnh Người trên bức tranh màu nước khổ lớn, mặc áo bông tay để xuống bàn màu đỏ, đang nói chuyện trước hội nghị. Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung năm 1968 có dịp vẽ chân dung Người lần nữa, và sau này là một trong số rất ít họa sĩ được trình bày trang trí mỹ thuật phần đặt linh cữu trong lăng Hồ Chủ tịch.
Có một câu chuyện hết sức cảm động là năm 1947, tại Đồng Tháp Mười, trong một đêm cảm xúc dâng tràn, họa sĩ Diệp Minh Châu đã lấy máu từ tay mình vẽ bức “Bác Hồ với ba em thiếu nhi Trung Nam Bắc”. Về sau ông còn xây dựng nhiều tượng Hồ Chủ tịch “Bác dịch sử Đảng” (1980), “Bác bên suối Lê Nin” (1982), “Bác viết luận cương” (1985)… Một họa sĩ khác cũng từng vẽ Hồ Chủ tịch bằng máu, là họa sĩ mù Lê Duy Ứng. Đó là bức tranh nổi tiếng “Ánh sáng niềm tin”.
Nhiều họa sĩ Việt Nam đã thể hiện hình ảnh Hồ Chủ tịch với niềm tôn kính sâu sắc.
Trong kháng chiến chống Pháp và những năm tháng hòa bình đầu tiên, các họa sĩ và các nhà điêu khắc thể hiện Hồ Chủ tịch trong tình chan hòa với nhân dân ở thời bình. Trong kháng chiến chống Mỹ, nhiều hình ảnh Hồ Chủ tịch đang làm việc, về thăm nông dân, đến thăm trận địa pháo cao xạ, cùng với dân quân du kích… được thể hiện.
Đáng chú ý là các tác phẩm chân dung sơn dầu của họa sĩ Trần Văn Cẩn “Bác Hồ bên suối Lê Nin” thể hiện phong thái ung dung của Bác. Họa sĩ Văn Giáo có nhiều tác phẩm: “Trở về biên giới 1941”, “Bác đọc bia ở Côn Sơn”, “Bác soạn Tuyên ngôn ở Hàng Ngang”… Họa sĩ Trịnh Phòng có bức “Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”; Nguyễn Văn Chiến có “Đầu nguồn cách mạng”; Quang Thọ có “Bác Hồ với dũng sĩ miền Nam”; họa sĩ Vương Trình có nhiều tác phẩm “Bác Hồ với bộ đội pháo”, “Bác Hồ với nông dân”, “Bác Hồ với chiến sĩ thi đua”; họa sĩ Nguyễn Nghĩa Duyện có “Bác đang cùng bộ đội hành quân”; Văn Đa có “Bác với bộ đội trong rừng”; Trần Đình Thọ thể hiện Hồ Chủ tịch cùng các đồng chí Trung ương bàn chiến dịch trong bức tranh “Điện Biên Phủ”; Đỗ Hiển có “Bác Hồ với trận địa phòng không”… Họa sĩ Dương Bích Liên thành công với tác phẩm “Bác Hồ đi công tác ở Việt Bắc”, thể hiện trên tranh sơn mài khổ lớn, với dãy núi xa xa, và Bác đang chuẩn bị cương ngựa lên đường…
Hình tượng Hồ Chủ tịch trong tranh cổ động nhiều tác phẩm tạo hiệu ứng thẩm mỹ cao. Họa sĩ Nguyễn Thụ và Huy Oánh có “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân”; họa sĩ Lê Huy Trấp có “Hồ Chủ tịch”…
![]() |
Nhà điêu khắc Mai Văn đang tạc tượng Bác Hồ |
Hình ảnh Hồ Chủ tịch trong điêu khắc nặn tượng cũng rất phong phú. Trần Tía với chạm gỗ “Bác Hồ với thiếu nhi”; Lê Thành Công với tượng “Bác Hồ 1920”; Đặng Hiền với phù điêu “Chân dung Bác” nhìn nghiêng; Lều Thị Phương với “Chân dung Bác” trên nền son sơn mài; Minh Đỉnh với các tượng “Bác dịch sử Đảng, “Bác đi chiến dịch”; Nguyễn Thiện với “Bác ngồi đọc báo”… Có một số sự kiện của ngành hội họa đáng ghi nhớ. Năm 1970, một năm sau ngày Hồ Chủ tịch qua đời, các họa sĩ Việt Nam đã tổ chức trưng bày phòng tranh thể hiện niềm tiếc thương vô hạn. Nhiều tác phẩm xúc động đã được trưng bày: họa sĩ Quang Phòng có “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ”; Đào Đức có “Đêm nay Bác không ngủ”; Vương Học Báo có “Chân dung Bác” trên phù điêu…Mùa hè năm 1974, nhóm họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, Trần Đình Thọ, Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị đã vẽ khu nhà sàn của Bác. Họa sĩ Trần Văn Cẩn vẽ “Nhà Bác ở Kim Liên”, “Giếng Cốc quê Bác”, “Trúc Bác trồng ở Cao Bằng”… Những tác phẩm này không có hình ảnh Bác, nhưng người xem có thể nhận ra hình bóng Hồ Chủ tịch ở đó, với cốt cách một con người vĩ đại.
Nhiều tượng đài Hồ Chủ tịch được các nhà điêu khắc thể hiện, tiêu biểu có Diệp Minh Châu tạc đá chân dung Bác cao 5,5m (chưa kể bệ).
*
![]() |
Bức chân dung Bác Hồ của Lê Minh Trường được làm bìa Tạp chí Sông Hương số 303, 5/2014 |
Giới họa sĩ Thừa Thiên Huế cũng rất nhiều người thể hiện chân dung Hồ Chủ tịch với niềm xúc động. Nhân dịp sinh nhật Bác 19/5/1967, họa sĩ Lê Minh Trường, trình bày báo Cờ Giải Phóng Thừa Thiên Huế, giữa chiến trường đầy đạn bom vẫn sáng tác tranh khắc gỗ chân dung Hồ Chủ tịch in báo, với dòng chữ “Kỷ niệm ngày sinh Bác Hồ 19/5, quân và dân quê ta kính chúc Người mạnh khỏe, sống lâu” (Bức tranh ký tên là Nguyễn Minh Trường). Họa sĩ Lê Minh Trường là người con của huyện Phong Điền, từng tham gia làm báo ở chiến khu Thừa Thiên trong chống Mỹ, sau đó hy sinh vào năm 1968.
Cả nước từ lâu biết đến các họa sĩ Lê Thái, Trần Xuân Phúc, Trần Mai… dành trọn đời để vẽ chân dung Hồ Chủ tịch; họa sĩ nhà điêu khắc Mai Văn ở Huế cũng tương tự như vậy. Trước khi qua đời năm 2014, ông có hơn 30 năm gắn bó với nghề điêu khắc, đúc hàng ngàn bức tượng Bác Hồ. Năm 1980, tại triển lãm thủ công mỹ nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế, nhà điêu khắc Mai Văn đã đúc tượng Bác Hồ bằng đồng, cao 1,8m. Năm 1982, tỉnh Quảng Trị đã mời ông dựng bức tượng Bác về thăm nhà trẻ Vĩnh Linh cao 3m. Nhân Hội thao toàn quân tại Huế năm 1984, ông đã làm 50 bức tượng Bác để tặng các đơn vị về dự hội. Năm 1994, ông cũng được tỉnh Quảng Bình mời ra nặn bức tượng Bác cao 3m. Năm 2010, đồng bào miền Tây và miền Đông Nam Bộ đã đặt ông 8.000 bức tượng Bác để đặt trong nhà…
Nhà điêu khắc Mai Văn tạc tượng Hồ Chủ tịch, thể hiện Người toát lên phong thái của một bậc vĩ nhân nhưng lại rất hiền hòa, gần gũi. Ông gửi gắm vào đó bao tình cảm mến yêu và lòng tôn kính đối với vị cha già của dân tộc mà nếu “Không có tình cảm thì không làm được” như ông chia sẻ. Khi tuổi đã cao, nhà điêu khắc Mai Văn vẫn hào hứng: “Khi nào còn sức khỏe thì tôi còn tạc tượng Bác Hồ. Bây giờ, tôi mới làm Bác Hồ là lãnh tụ. Tôi còn muốn thể hiện Bác Hồ là nhà thơ, nhà văn hóa thế giới, danh nhân văn hóa thế giới…”.
Mới gần đây thôi, hàng trăm tác phẩm hội họa về Hồ Chủ tịch đã được sinh viên Trường đại học Nghệ thuật Huế thể hiện. Hình ảnh Hồ Chủ tịch thật sự vẫn là nguồn cảm hứng sáng tạo cho nhiều họa sĩ Việt Nam(*).
P.V
(SH324/02-16)
--------------------------------------
(*) Bài viết có sử dụng tư liệu trong các bài viết “Hình ảnh Bác Hồ trong nghệ thuật tạo hình” (Nguyễn Hải Yến), “Ba lần vẽ Bác Hồ (Tô Ngọc Thanh), “Tấm lòng của các nghệ sĩ tạo hình với Bác Hồ” (Nguyễn Văn Chiến).
HỒ DZẾNH
Hồi ký
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
NGUYỄN DU
LÝ HOÀI THU
Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.
PHẠM THỊ CÚC
(Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)
Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.
CAO THỊ QUẾ HƯƠNG
Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.
THÁI KIM LAN
Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.
Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?
Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.
Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.
DƯƠNG PHƯỚC THU
LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.
NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN
(Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)
BÙI KIM CHI
Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…
LÊ MINH
Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)
… Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.
NGUYỄN KHOA BỘI LAN
Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.
(SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.
NGUYỄN CƯƠNG
Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.
PHẠM HỮU THU
Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.
TRẦN NGUYÊN
Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.
PHẠM HỮU THU
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12
“Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).