Hồ Chí Minh và báo chí cách mạng

08:23 06/06/2011
Kỷ niệm 100 năm ngày bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước & Ngày báo chí cách mạng Việt NamPHẠM PHÚ PHONG - HỒ DŨNGHơn ai hết, trong buổi bình minh của cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người ý thức rất đầy đủ về sức mạnh của báo chí và dư luận xã hội trong đấu tranh cách mạng. Nó không chỉ là phương tiện giao lưu tư tưởng, mở đường cho văn hóa phát triển mà còn là vũ khí, là công cụ đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc trên mặt trận tư tưởng.

Nguyễn Ái Quốc tại ĐH toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours 12-1920

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Trong bối cảnh đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức và trước yêu cầu lịch sử của cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân buổi đầu thế kỷ XX ở Việt Nam, bước mở đầu của cuộc tìm đường là sự trang bị một bản lĩnh văn hóa, để có được soi sáng về nhận thức và lý luận. Ở những nước bị chìm đắm quá sâu vào đêm trường phong kiến như ở phương Đông, cuộc tìm đường bắt đầu từ sự khai sáng để nâng cao dân trí. Sứ mệnh ấy được giao cho người trí thức. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh của chúng ta phải đảm nhận cả hai trọng trách ngay từ bản thân mình, phải thực hiện cùng lúc hai quá trình trí thức hóa cách mạng và cách mạng hóa trí thức.

Người đã từng nói rằng, mình đã học ở L. Tolstoi cách viết văn và việc vận dụng cách viết của L. Tolstoi đã đem lại thành công đầu tiên ở truyện ngắn Pa-ri được đăng báo, khiến Người rất vui (1, tr.41). Người vào nghề viết đầu tiên là viết báo. Bài báo đầu tiên là bản yêu sách 8 điểm Yêu sách của nhân dân Việt Nam đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam ký tên là Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Versilles (ngày18.6.1919). Cũng từ đây, cái tên Nguyễn Ái Quốc trở nên nổi tiếng trước công luận (trước đó, trên bước đường đi tìm đường cứu nước, Người cũng đã từng viết Đơn gửi Tổng thống Pháp đề ngày 15.9.1911, trình bày nguyện vọng muốn vào học Trường Thuộc địa, hoặc Thơ gửi cụ Phan Châu Trinh năm 1914 (2, tr.12) nhưng những tác phẩm này sau đó mới được in báo), vang dội ở Đại hội Đảng xã hội Pháp (Tour) cũng là nơi thành lập Đảng Cộng sản Pháp và Người trở thành một trong những thành viên sáng lập. Từ đó, liên tục trên các báo tiến bộ, thường xuyên xuất hiện cái tên Nguyễn Ái Quốc ký bên dưới các bài nghị luận chính trị sắc bén. Tháng 7.1921, Người cùng với một số nhà cách mạng các nước lập ra Hội Liên hiệp thuộc địa và đứng ra chủ trương tờ Người cùng khổ (ba thứ tiếng là A rập, Pháp và Việt) là cơ quan ngôn luận của Hội. Nhà báo cách mạng đầu tiên Nguyễn Ái Quốc không dừng lại ở tờ báo chung cho các dân tộc thuộc địa mà còn chủ trương thành lập một tờ báo tiếng Việt xuất bản tại Paris để lưu hành trong bảy vạn dân Việt đang sinh sống tại đó và tìm cách đưa về nước, lấy tên là Việt Nam hồn (1923), nhưng việc làm này không thành công vì Người bận quá nhiều công việc. Tất cả những công việc đó là bước chuẩn bị về tư tưởng có tính cấp thiết cho cách mạng. Hành động và ý thức về vai trò của báo chí trong cuộc đấu tranh tư tưởng của Hồ Chí Minh trong thời gian này gần giống như Mark và Engls, khi các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mark đứng ra thành lập tờ Nhật báo tỉnh Ranh mới và tờ Bình luận kinh tế chính trị trước đó hơn bảy mươi năm (1745-1850): “Xác định bản chất của báo chí, vai trò và khả năng của báo chí trong đời sống xã hội, Mark và Engels đã đề ra và vận dụng những nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho lý luận báo chí vô sản, đã thể hiện những quan điểm của những người cộng sản đầu tiên về vai trò, vị trí, nhiệm vụ và ý nghĩa của báo chí trong việc giáo dục và động viên quần chúng, trong việc chuẩn bị và hướng dẫn đấu tranh cách mạng. Thực tế hoạt động báo chí của hai ông thể hiện như những nhà báo và nhà tổ chức thiên tài, Mark và Engels đã sáng lập và tổ chức tờ Nhật báo tỉnh Ranh mới - một hiện tượng mới trong lịch sử báo chí. Tờ báo được được thành lập và hoạt động của nó có ý nghĩa như cơ quan chính trị chung của toàn nước Đức và trên thực tế, nó đóng vai trò như cơ quan tham mưu của cách mạng” (3,tr.12). Báo Người cùng khổ với những bài luận chiến sắc sảo của Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn có ý nghĩa như vậy. Rene de Pêtre đã từng xác định tầm bao quát và ý nghĩa thực tiễn của nó: “Trong tác phẩm báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người nông dân ở Việt Nam, ở Angieri, ở Tuynidi, ở Congo, người bị áp bức ở quần đảo Antidat hoặc ở “miền Nam già cỗi” của nước Mỹ, đều có một người nhiệt thành bênh vực” (4,tr.523).

Cũng thời gian đó, Người viết cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp cùng với nhiều bài báo, truyện ngắn, ký, phóng sự, nhàn đàm, tùy bút, tản văn “lên án một cách toàn diện chủ nghĩa thực dân Pháp, vạch ra con đường cách mạng đúng đắn cho các dân tộc bị áp bức, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin” (5,tr.313). Vào nghề viết bằng tờ Người cùng khổ thể hiện quyết tâm và ý chí của Người tập trung nhiều nhất là việc viết báo, viết những bút ký, phóng sự, tiểu phẩm nhằm lên án chủ nghĩa thực dân và cuốn sách đầu tay Bản án chế độ thực dân Pháp là sự tổng hợp của sức mạnh báo chí, nhằm thức tỉnh thế giới thuộc địa và cảnh tỉnh những người chính quốc do ngây thơ hoặc do hoảng hốt mà không hiểu thực chất của vấn đề thuộc địa.

Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây Người bắt tay vào chuẩn bị khẩn trương công tác chính trị, tư tưởng, tích cực đẩy mạnh cho việc thành lập một chính đảng cách mạng. Năm 1925, Người mở lớp huấn luyện cán bộ thanh niên Việt Nam và chọn ra những thanh niên ưu tú để lập tổ chức Hội Thanh niên cách mạng đồng chí và lập ra tờ Thanh niên, cơ quan ngôn luận của Hội. Đây là tờ báo cách mạng đầu tiên của nước ta. Một tờ tuần báo, viết bằng bút sắt trên giấy sáp, khổ 18x24 cm phát hành mỗi kỳ 100 bản, chia đều cho 21 cơ sở Hội trong cả nước với hơn 270 hội viên, chuyền tay nhau đọc, có tác dụng rất lớn về mặt tư tưởng, đồng thời cũng là cuộc tập dượt về mặt tổ chức của phong trào cách mạng có tính chất thăm dò đầu tiên. Giới báo chí, người làm báo Việt Nam có thể tự hào về người khai sinh ra báo chí cách mạng và có thể rút ra bài học quý báu, trong đó Người đã triệt để huy động ưu thế văn học để cho ra đời những trang văn đầy sức mạnh của hình ảnh và sự truyền cảm của hình tượng.

Điều đáng lưu ý là, cũng chính thời điểm này, Người không ngừng có những bài ký chính luận sắc sảo làm lay động chính phủ Pháp ở tận “chính quốc” và thức tỉnh cả những người “bản xứ” đang bị nô lệ ở đất nước. Những tờ báo xuất bản bằng tiếng Pháp trong nước thời kỳ này như tờ Jeune Annam của Lâm Châu Hiệp, La Cloche Fêleé của Nguyễn An Ninh, Annam của Phan Văn Trường, Ere Nouvelle của Cao Hải Đề… đều có in bài của lãnh tụ cộng sản Nguyễn Ái Quốc. Lịch sử báo chí Việt Nam của Tiến sĩ Huỳnh Văn Tòng do Trí Đăng xuất bản 1973 tại Sài Gòn, còn ghi lại trường hợp tờ Jeune Annam: “Điều đáng chú ý trong tờ báo này là ngoài những bài do Bộ biên tập viết, với bút hiệu Nam Cương, Nguyễn Trung Quốc, Ông Tiên, Vân Trình, Nguyễn Bật,… thỉnh thoảng thấy có vài bài ký Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền, trích lại từ tờ Pa-ri ở Ba-lê nhan đề Chủ nghĩa đế quốc Pháp ở Viễn đông, Noi gương Trung Hoa…” (6,tr.166). Với tờ La Cloche Fêleé của Nguyễn An Ninh giai đoạn những năm 1925 - 1926, khi nhà chí sĩ Nguyễn An Ninh đã bị thực dân Pháp bắt đày đi Côn Đảo, người thay thế phụ trách là Phan Văn Trường: “Kể từ số 21 (30.11.1925) Phan Văn Trường cho đăng theo kiểu tiểu thuyết dài kỳ những thiên ký sự dài kỳ nhan đề: “Một cuộc âm mưu khuynh đảo chính quyền do người Việt Nam chủ trương hay là Sự thật về vấn đề Đông Dương trong đó tác giả thuật lại những hoạt động của sinh viên Việt Nam, của Phan Châu Trinh, của Nguyễn Ái Quốc ở Pais” (6,tr.219). Cũng cần nói thêm, Phan Văn Trường là Tiến sĩ luật khoa, khi còn du học ở Pháp đã hoạt động báo chí, đã cộng tác với nhiều tờ báo tiến bộ ở Pháp và Đông Dương và đã từng làm việc ở tòa soạn báo Le Paria do Nguyễn Ái Quốc chủ trương (6,tr.222).

Rõ ràng là hoạt động báo chí của Hồ Chí Minh giai đoạn này không chỉ là bước chuẩn bị tư tưởng, tập dượt về tổ chức cho cuộc cách mạng mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với sự hình thành và phát triển của báo chí cách mạng. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng hơn nửa thế kỷ, tất cả những gì Người nói và viết bằng nhiều ngôn ngữ, trên nhiều loại hình loại thể, từ hoạt động diễn thuyết đến viết báo, viết truyện, dựng kịch, vẽ tranh, làm thơ,… đều nhằm vào mục tiêu cách mạng, chứ không hề có ý định trở thành bất kỳ một tác gia gì trong hoạt động đó. Trong hành trang tinh thần của Người, bắt đầu từ tuổi ba mươi, đã có không ít vốn tri thức tự trang bị: tư tưởng, triết học, văn hóa, văn học, nghệ thuật, báo chí… Con người mang tên Nguyễn Ái Quốc đã được định hướng cho cuộc đời ngay từ tên gọi. Con người có vốn văn hóa tri thức, văn hoá đạo đức và cả văn hoá thẫm mỹ uyên thâm nhưng không có ý định làm một nhà trí thức, một nhà văn hóa phương Tây vì sự tất yếu của lịch sử buộc Người phải trở thành một nhà cách mạng phương Đông. Và phương Đông trong thời điểm này đang là sản phẩm của chính sách bóc lột và ngu dân, là sự đồng nghĩa với tối tăm và đau khổ. Người ta thường ví những tác phẩm lớn của Người viết cho phương Đông, cho Đông Dương đang đòi hỏi phải được “thức tỉnh” là Đường kách mệnhNhật ký chìm tàu với Nhà nước và cách mạng của Lênin; nhưng có lẽ đây là Lênin phương Đông, bởi vì tác phẩm của người mang một hình thức chuyên chở khác, giản dị, phổ cập, dễ hiểu mà chương đầu là nhằm xác định Tư cách của người kách mệnh.

Ở khoảng lùi của một thế kỷ nhìn lại, ta có thể nhận ra chân dung nhà văn hoá từ những Yêu sách của nhân dân Việt Nam đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam, Nô lệ thức tỉnh đến Di chúc thiêng liêng, Người đã viết trong suốt cuộc đời mình. Theo thống kê chưa đầy đủ của Bộ biên tập chỉ tính riêng từ tháng 9/1945 đến 1/6/1969, Người đã có 1205 bài in trên báo Nhân dân. Đó là chưa kể đến bài in ở báo khác. Chưa nói đến thiên tài tổ chức, người đặt nền móng cho báo chí cách mạng, chỉ nói đến tư cách nhà báo biết sử dụng thành thạo mười hai ngoại ngữ, biết vận dụng thích ứng tất cả các thể tài, thể loại và cũng chưa tính đến sự nghiệp văn chương nghệ thuật của Người. Nhà báo cơ bản như một hành động hướng ngoại và người nghệ sĩ như một hành động hướng nội, viết cho đông đảo công chúng và viết cho riêng mình, viết nhằm vào các hiệu quả trực tiếp, cụ thể và viết để đấy, hoặc rồi bỏ quên, hai định hướng khác nhau ấy là một thể thống nhất ở Hồ Chí Minh, tạo nên một bản lĩnh tổng hợp và tầm cao của một danh nhân văn hoá.

P.P.P-H.D
268/06-11



--------------
1. Phong Lê, Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 1998.
2. Hoàng Minh Nhân - Nguyễn Bá Ngọc, Cẩm nang tra cứu tổng hợp Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hà Nội 2006.
3. Nguyễn Đình Hòa, Sự hình thành và phát triển của lý thuyết báo chí Mác-xít, Luận án Thạc sĩ, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 1997.
4. Nhiều tác giả, Nghiên cứu học tập thơ văn Hồ Chí Minh, Nxb KHXH, Hà Nội 1979.
5. Nhiều tác giả, Từ điển văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội 2004.
6. Huỳnh Văn Tòng, Lịch sử báo chí Việt Nam, Nxb Trí Đăng, Sài Gòn 1973.







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.

  • NGUYỄN QUANG HÀTôi nhớ sau thời gian luyện tập miệt mài, chuẩn bị lên đường chi viện cho miền Nam, trong lúc đang nơm nớp đoán già đoán non, không biết mình sẽ vào Tây Nguyên hay đi Nam Bộ thì đại đội trưởng đi họp về báo tin vui rằng chúng tôi được tăng viện cho chiến trường Bác Đô.

  • LÊ HUỲNH LÂM(Đọc tập truyện ngắn “Thõng tay vào chợ” của Bạch Lê Quang, NXB Thuận Hóa, 11/2009)

  • LÊ VŨ(Đọc tập thơ Nháp của Ngọc Tuyết - NXB Thanh niên 2009)

  • NGÔ MINHÐọc lại Chiếu Dời đô, tôi bỗng giật mình trước sự vĩ đại của một quyết sách. Từng câu từng chữ trong áng văn chương bất hủ này đều thể hiện thái độ vừa quyết đoán dứt khoát với một lý lẽ vững chắc, vừa là một lời kêu gọi sự đồng thuận của triều thần với lời lẽ rất khoan hòa, mềm mỏng.

  • LÊ HUỲNH LÂMThơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.

  • KHÁNH PHƯƠNGNgay từ thuở cùng Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương viết tuyên ngôn Tượng trưng, Trần Dần đã mặc nhiên khảng khái công bố quan niệm, thơ bỏ qua những biểu hiện đơn nghĩa của sự vật, sự kiện, đời sống, mà muốn dung hợp tất cả biểu hiện hiện thực trong cõi tương hợp của cảm giác, biến nó thành không gian rộng lớn tiếp biến kỳ ảo của những biểu tượng tiềm thức. Như vậy cũng có nghĩa, nhà thơ không được quyền sao chép ngay cả những cảm xúc dễ dãi của bản thân.

  • NGUYỄN CƯƠNGSư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905 viên tịch năm 1997 hưởng thọ 93 tuổi. Lúc sinh thời Sư Bà trụ trì tại Chùa Hồng Ân, một ngôi chùa nữ tu nổi tiếng ở TP Huế, đã một thời là trung tâm Phật giáo ở miền Nam.

  • HỒNG NHU    (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)

  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬTĐọc xong tập sách do họa sĩ Phan Ngọc Minh đưa mượn vào đầu tháng 6.2009(*), chợt nghĩ: Hẳn, đã và sẽ còn có nhiều bài viết về tác phẩm này.

  • NGUYỄN HỮU QUÝ         (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.

  • LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.

  • MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.

  • SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.

  • CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!