Hai thái sư Lê Văn Thịnh: một nghịch thần, một danh nhân (hay là nỗi oan khuất của Thái sư Lê Văn thịnh)

09:35 06/01/2010
LÊ THÀNH LÂNTrong 4 năm liền, Tào Mạt lần lượt cho ra đời ba vở chèo tạo nên một bộ ba chèo lịch sử với tiêu đề chung là Bài ca giữ nước, đều do Đoàn Nghệ thuật Tổng cục Hậu cần dàn dựng và đều được nhận những giải thưởng cao.

Tượng Thái sư Lê Văn Thịnh trong đền thờ tại xã Đông Cứu, Gia Lương, Hà Bắc - Ảnh: wikipedia

Vở đầu tiên là Lý Thánh Tông chọn người tài, dựng năm 1979, được giải thưởng loại A tại liên hoan phim vô tuyến truyền hình toàn quốc năm 1983. Vở tiếp là Ỷ Lan coi việc nước, dựng năm 1980 và được huy chương vàng tại hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc ngay trong năm đó. Vở cuối cùng là Lý Nhân Tông học làm vua, dựng năm 1982, đạt huy chương vàng tại hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1985 với số điểm toàn phiếu tuyệt đối, gọi nôm na là “vàng mười”.

Ba vở diễn này đã đưa Tào Mạt lên hàng đầu những nhà viết chèo nổi nhất trong những năm ấy. Mười lăm năm nay chúng được trình diễn nhiều lần và được chiếu đi chiếu lại rất nhiều lần trên vô tuyến.

Vở thứ ba là nổi tiếng nhất, là cao trào của toàn bộ ba chèo lịch sử này. Theo lẽ thường mỗi vở đều có vài trung và nịnh; trong vở này, vai nịnh điển hình nhất và cũng là đạt nhất là Thái sư Lê Văn thịnh. Ngày nay công chúng đã quá quen với một nghịch thần Lê Văn Thịnh, kẻ đã đang tâm cho chôn sống ông Hề già, rồi trở mặt giết cả nhà bốn tên thủ hạ để bịt miệng người đời, hòng xóa hết tang tích của kẻ thủ mưu; lại cho thủ hạ là người Đại Lý sắp sẵn cả một đội quân mang lốt cọp để làm việc phản nghịch; cuối cùng chính Lê Văn Thịnh đã đích thân đội lốt cọp toan vồ vua trên hồ Mù Sương (Dâm Đàm - Hồ Tây). Khỏi phải kể lại chi tiết bởi công chúng đã quá quen với nhân vật này. Phải thừa nhận rằng Tào Mạt đã rất “thành công” trong việc xây dựng nhân vật này; thật xứng với giải “vàng mười” - một trường hợp hy hữu trong các hội diễn văn hoá nghệ thuật.

Ta biết đây là vở chèo lịch sử, nghĩa là lấy đề tài từ lịch sử. Vậy, chúng ta hãy thử xem sử sách cổ viết gì?

Sử sách đều ghi Lê Văn Thịnh là Tiến sĩ khai khoa - vị Tiến sĩ đầu tiên của nền khoa cử Việt Nam, là thầy học của vua Lý Nhân Tông, 12 năm là quan đứng đầu triều đình với chức Thái sư, từng đi đàm phán về biên giới với người Tống và giành được thắng lợi trong việc đòi lại một vạt đất ở biên giới. Chỉ có một chi tiết để gợi ý Tào Mạt xây dựng nhân vật này thành nhân vật phản diện; đó là câu chuyện “hóa hổ” mà Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư) đã viết:

“Lê Văn Thịnh mưu làm phản, tha tội chết, an trí ở Thao giang. Bấy giờ vua ngự ra hồ Dâm Đàn, đi chiếc thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ tái mặt đi, nói rằng: nguy lắm rồi! Người đánh cá là Mục Thận quăng cái lưới trùm lên trên con hổ, thì ra là Thái sư Lê Văn Thịnh… Trước đây Văn Thịnh có gia nô người Đại Lý có pháp thuật kỳ dị, cho nên làm ra như thế để định cướp ngôi giết vua.”

Có lẽ Toàn thư đã căn cứ vào Việt điện u linh - một tập truyện huyền thoại để viết đoạn sử này.

Và đây là những dòng được viết trong Việt điện u linh:

“Trong thời vua Lý Nhân Tông, quan thái sư Lê Văn thịnh, nuôi được một tên gia nô người Đại Lý có thuật lạ: đọc thần chú xong, biến hình thành hổ báo, Văn Thịnh cố dỗ để dạy mình thuật ấy, học được thuật rồi, liền lập mưu giết tên gia nô và định dùng thuật hại vua để cướp ngôi.

Bấy giờ vua Nhân Tông ngự ra Hồ Tây xem đánh cá, thuyền vua đang bơi trong hồ, bỗng thấy mây mù nổi lên phủ kín, rồi nghe có tiếng mái chèo tới gần, trong mây mù trông thấy có con hổ nhe răng, giương vuốt chực hại người. Nhân Tông hoảng sợ bối rối. Lúc đó, Mục Công ngồi thuyền đánh cá ở gần, nhìn kỹ thấy thế, nói: “việc gấp lắm rồi”, liền quăng lưới chụp vào thuyền kia, bắt được con hổ và nhận ra là Lê Văn Thịnh”.

Trong khi đó Việt sử lược (một bộ sử của nước ta được viết vào cuối đời Trần, nhưng không còn lưu giữ được ở trong nước, mãi về sau mới được in vào Tứ khố toàn thư đời Thanh) lại viết khác, không có câu chuyện hoang đường là Lê Văn Thịnh hóa hổ:

“Lúc bấy giờ, vua ngự chiếc thuyền nhỏ, thị vệ rất ít. Thái sư Lê Văn Thịnh từ lâu đã chất chứa mưu gian, nhân đó dùng ảo thuật làm thành khói mù lớn. Ở giữa hồ đang ban ngày, trời tối sầm lại. Bỗng chốc vua nghe thấy tiếng mái chèo lại gần, vua nghĩ chắc có biến bèn lấy giáo phóng ra. Khói mù theo giáo mà tan đi. Thấy thuyền của Văn Thịnh đã sát tới, có sẵn đồ hung khí, vua sai người bắt. Vua xuống chiếu đày Văn Thịnh đi Lương - giang - đầu. Xưa nhà Văn Thịnh có một đầy tớ (gia nô), người Đại Lý, giỏi về ảo thuật. Văn Thịnh học phép của nó, đến lúc này bèn phản.”

Vụ án Lê Văn Thịnh xẩy ra vào năm 1096. Hai, ba trăm năm sau thì vụ án đó đã đi vào quên lãng và đã biến thành một câu chuyện hoang đường. Nếu vụ án đó không có gì mờ ám, thì nó đã được ghi lại tỏ tường, và làm sao lại có được câu chuyện linh dị ấy. Cuốn Việt điện u linh được hoàn tất vào năm 1329. Người viết cuốn sách đó vốn không phải là nhằm ghi những chuyện có thật, chỉ muốn chép những câu chuyện thần thánh linh thiêng, mà trong câu chuyện này chủ yếu muốn tán dương công tích vị thần hoàng ở xã Trích Sài là Mục Thận. Và như thế Lê Văn Thịnh chỉ là một “vật tế thần” mà thôi. Nói về một kẻ bề tôi có tội trong câu chuyện thần hoàng này như thế nào mà chả được.

Đến khi người viết Việt sử lược (hoàn thành sau năm 1377) tham khảo chuyện ấy đã thấy là kinh dị mà lược bớt việc Lê Văn Thịnh hóa hổ, chỉ giữ lại chuyện ông học được thuật làm ra khói mù. Đáng tiếc là Việt sử lược bị thất lạc, không còn ở trong nước để những người làm Toàn thư tham chiếu. Thế là Toàn thư cứ theo Việt điện u linh. Dù sao một cuốn sử như Toàn thư mà chép như vậy cũng là khó lý giải. Tất nhiên, tình cảnh như trên, thì đến năm 1697, các sử quan nhà Lê không có tư liệu gì hơn để lý giải cho thỏa đáng việc Thái sư Lê Văn Thịnh bị giáng chức, họ đã chép lại truyền thuyết. Kể ra sử học mà lấy truyện huyền hoặc làm căn cứ thì thật sai lầm về phương pháp. Nhưng, chắc gì họ đã thật tin vào câu chuyện hoang đường đó. Tuy vậy, cứ chép để mà chép, cốt là ghi lại một sự kiện, mặc cho người đời sau chẳng thể lấy đó làm tin. Không tin được thì phải suy ngẫm mà tự hiểu lấy.

Ta biết, thời xưa “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”. Vậy là, trái lệnh vua là sai, là có tội; không vừa ý vua là có họa. Trong dằng dặc năm tháng của lịch sử có biết bao nhiêu thảm án, có biết bao nhiêu điều oan khốc. Thời đầu Lê sơ, có nhiều công thần bị giết oan mà sử sách còn ghi lại được, như Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi. Thời nhà Nguyễn cũng có nhiều đại thần bị giết hoặc tru di tam tộc. Việc tranh đoạt quyền hành, giành giật ngôi thứ hoặc bảo vệ hay cướp ngôi vua cũng thường mang lại cái chết. “Được làm vua, thua làm giặc” là lẽ thường. Nguyễn Bặc, Đinh Điền vì bảo vệ nhà Đinh nên bị Lê Hoàn giết cũng vì lẽ ấy; vậy mà sử cũ chỉ ghi lại lời Lê Hoàn kể tội Nguyễn Bặc. Toàn thư còn có ghi lại lời phê của sử thần Ngô Sĩ Liên đối với cách ghi sử đó: “Khi Bặc chết, tất có nói một lời để tỏ chính nghĩa, sử không thấy chép, thế là bỏ sót”. Có lẽ chỉ có mình Nguyễn Trãi là sau còn được vua Lê Thánh Tông giải oan cho, mà đó là vì lẽ: trước đây mẹ của vua Lê Thánh Tông khi mang thai ông đã từng được Nguyễn Trãi cứu giúp. Việc minh oan ấy cũng chỉ được Toàn thư nhắc lại sơ sài qua việc: “cho Anh Vũ là con của Nguyễn Trãi làm huyện chức”.

Theo đó mà suy, nhiều người cho rằng Lê Văn Thịnh bị kết án oan, rồi bị đời sau thêu dệt thêm thành trọng tội, chỉ có điều ông không được một minh quân nào giải oan cho. Với cách xử lý: cho “an trí ở Thao Giang”, ta có thể đoán rằng: “tội” của Lê Văn Thịnh không nặng lắm.

Xin bàn sâu thêm một chút. Câu chuyện “thâm cung bí sử” này đã qua lâu lắm rồi, bây giờ thật sự không còn có bằng chứng nào để mà khảo cứu, để mà tìm cách minh oan cho ông. Tuy vậy bằng một trực giác cảm tính, chúng ta không thể tin rằng đó là một câu chuyện có thật. Chúng ta không thể tin rằng có ai đó có pháp thuật bằng mấy câu chú mà hóa thành hổ được; thuật đó lại có thể dễ dàng truyền cho người khác. Còn như nếu cứ theo lôgic của các câu chuyện hoang đường thì phải có một câu chú khác để giải, tức là một câu chú đọc lên để con hổ đó lại hóa thành người. Ông già câu cá Mục Thận tất cũng phải có pháp thuật, chứ là người thường với cái lưới đánh cá thì sao mà chụp được hổ, lại còn hóa nó trở thành Lê Văn Thịnh. Nếu hóa được thành hổ mà “võ công” tầm thường như con hổ Lê Văn Thịnh thì hóa phép mà làm gì. Chắc Tào Mạt cũng nhận thấy cấu trúc lỏng lẻo của câu chuyện hoang đường kia, nên đã cải biến đi, cho Lê Văn Thịnh đội lốt hổ. nếu việc tiếp cận vua dễ dàng như trong câu chuyện này, thì đội lốt hổ mà làm gì cho vướng víu, chỉ cần bắn một phát tên là xong. Một văn quan đại thần đứng đầu văn võ bá quan như Thái sư Lê Văn Thịnh không thể nào chọn một phương sách giết hại vua bằng cách tự mình làm một “thích khách” như vậy. Lê Văn Thịnh phải tính toán, sau khi “vồ” vua, ông ta cần phải “giấu mặt” đi để còn có thể lên làm vua được. Tào Mạt thật khéo dựng chuyện hơn người xưa, ông cho Lê Văn Thịnh sai 4 tên gia nô đi giết ông Hề già, rồi giết cả gia đình bốn tên đó để bịt chứng tích. Cái mẹo “ném đá giấu tay” ấy mới là cao, sao “Lê Văn Thịnh thật” thuở xưa lại chẳng nghĩ ra kế đó để dùng vào “việc lớn”, phải để đến Tào Mạt mới nghĩ ra và cho phép ông dùng vào một việc chẳng đáng làm?

Ngày nay, hầu hết các nhà khoa học xã hội đều coi Lê Văn Thịnh là một danh nhân văn hoá.

Các tác giả Lịch sử tỉnh Hà Bắc coi ông là danh nhân quê hương, danh nhân nước Việt; tự hào rằng quê hương mình là đất khoa bảng, có ông là vị Tiến sĩ khai khoa.

Ngô Đức Thọ và cộng sự đã mở đầu cuốn sách Các nhà khoa bảng Việt Nam bằng Lê Văn Thịnh:

“Người làng Đông Cứu huyện Gia Định. Nay thôn Đông Cứu xã Đông Cứu huyện Gia Lương tỉnh Hà Bắc.

Đỗ khoa Minh kinh bác học năm Ất Mão niên hiệu Thái Ninh 4 (1075) đời Lý Nhân Tông. Làm quan đến chức Thái sư”.

Các tác giả đó còn ghi chú thêm:

“Ông từng giữ chức Thị lang bộ Binh, dẫn đầu sứ bộ nước ta đến trại Vĩnh Bình cùng sứ bộ nhà Tống thương lượng về việc biên giới, khi về được thăng hàm Thái sư. Đường lối chính trị của ông đã gặp phải một sức chống đối có thế lực rất mạnh dẫn đến việc ông bị khép tội “mưu phản”, bị đày đi Thao Giang năm Hội Phong 5 (1096) rồi mất ở đó. Vụ án của ông là một án kiện lớn, nhưng chỉ thấy sử sách ghi lại một cách lờ mờ qua truyền thuyết nói vua Lý Nhân Tông đi chơi thuyền trên Hồ Tây, chợt thấy con hổ ngồi trong chiếc thuyền đuổi theo vua, khi người đánh cá Mục Thận quăng lưới bắt được thì thấy con hổ biến thành Thái sư Lê Văn Thịnh.”

Trong Tự điển nhân vật lịch sử Việt Nam Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế cũng viết:

“Năm Ất Mão 1075, ông đỗ trạng nguyên khoa thi đầu tiên trong nước, liền được vua trọng dụng, phong làm Thị lang bộ Binh…

Cuộc tranh luận giữa ông với viên chánh sứ nhà Thanh là Thành Trạc đạt thắng lợi. Trở về nước, ông được cất lên chức Thái sư.

… Năm Bính Tý 1096, ông bị nghi kỵ có ý phản vua (sử chép chuyện hoang đường: Ông háo hổ để hãm hại Lê Nhân Tông khi nhà vua ra hồ Dâm Đàm - Hồ Tây), bị cách chức và đày lên miền thượng lưu sông Thao. Về sau, không rõ sống chết ra sao”.

Ở đây, chúng tôi xin ghi chú thêm:

- Huyện Gia Lương nay thuộc Bắc Ninh.

- Lê Văn Thịnh đỗ đầu khoa thi Minh kinh bác học này, sử cũ chỉ ghi tên một mình ông và ông được coi là “Tiến sĩ khai khoa” - Tiến sĩ đầu tiên của nền khoa cử Việt Nam. Tự điển danh nhân cho là ông đỗ trạng nguyên thì không thực chính xác, ông chỉ đỗ tiến sĩ mà thôi. Phải đến khoa thi năm Đinh Mùi (1247) thời Trần mới lấy đỗ Tam khôi gồm Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa; khoa đó Nguyễn Hiền mới 12 tuổi đỗ Trạng nguyên và là vị trạng nguyên đầu tiên ở nước ta.

- Thái sư là chức quan thuộc Tam công (Thái sư, Thái phó, Thái úy), đứng đầu bá quan văn võ thời bấy giờ.

Trong đời Lê Văn Thịnh có một lần bị đám mây đen bao phủ mà ngày nay hầu hết các nhà khoa học xã hội đều cho đó là một nghi án lịch sử, thậm chí khẳng định rằng ông bị oan; chẳng qua là có thể do đường lối chính trị mà ông chủ trương bị thất thế nên ông mới bị kết tội như nhóm tác giả Ngô Đức Thọ đã viết. Chúng tôi đồng ý với lập luận này.

Chúng tôi tin rằng Tào Mạt cũng không tin vào câu chuyện hoang đường về pháp thuật của người Đại Lý, ông cho Lê Văn Thịnh đội lốt hổ thay vì hóa hổ. Điều đáng bàn là Tào Mạt tô vẽ Lê Văn Thịnh thành một nghịch thần và gán cho Lê Văn Thịnh tội ác man rợ là giết ông Hề già và 4 tên gia nô cùng gia đình họ, những người không có thù oán gì với Lê Văn Thịnh; xây dựng một đội quân đội lốt hổ, hòng làm phản. Thế là điều oan khuất của Lê Văn Thịnh càng đầy thêm. Văn học nghệ thuật dễ đi vào lòng người, dễ đến với quần chúng vì vậy hình ảnh nghịch thần Lê Văn Thịnh dường như đã xóa nhòa, lấn át hoàn toàn hình ảnh một danh nhân lịch sử Lê Văn Thịnh. Đáng tiếc lắm thay! Văn học nghệ thuật quả là một vũ khí sắc bén. Tuy vậy, nó cũng là con dao hai lưỡi. Sử dụng nó thật không dễ. Chúng tôi biết rằng có viết bao nhiêu đi nữa cũng không đủ minh oan cho ông.

Dù sao đi nữa, một vết sẹo không làm nhòa mất khuôn mặt một danh nhân. Cho dù Lê Văn Thịnh có đắc tội với vua thì ông vẫn là một danh nhân của đất nước.

Có lẽ nên có một chuyên đề có tính chất lý luận bàn về quan hệ giữa văn học - nghệ thuật và lịch sử. Làm việc này chắc cũng tốn nhiều giấy mực. Chúng tôi không có ý định làm công việc đó.

Đành rằng, như Trần Vượng viết trong lời giới thiệu cuốn Bài ca giữ nước: “Tào Mạt khai thác đề tài lịch sử không phải để minh họa lịch sử, mà là mượn lịch sử để nói về những cái anh quan tâm nhất trong cuộc sống hôm nay”; nhưng cũng không nên vì thế mà “bắn súng vào quá khứ”. Ta hoàn toàn có cách để xử lý thỏa đáng vấn đề này. Tào Mạt đã xây dựng một ông Hề già không hề có thật. Tại sao ông không thể đặt tên cho nhân vật Thái sư này của mình bằng một cái tên khác? Thiếu gì cách để khỏi làm tổn thương đến một danh nhân đất nước, khỏi làm đau lòng hậu duệ của ông, đau lòng ngay cả chúng ta, những người tự coi là lớp con cháu ông, tự hào về ông.

Lê Văn Thịnh là một con người, dẫu rằng là người thiên cổ. Giờ đây Tào Mạt cũng đã là người thiên cổ. Chẳng biết ở suối vàng họ nói gì với nhau! Nhưng trên dương thế này, chúng tôi chỉ muốn biện bạch đôi lời cho nỗi oan chín trăm năm của ông và muốn thay ông kêu lên nỗi oan hơn chục năm nay. Chẳng lẽ chúng ta cứ để chất chồng và kéo dài mãi nỗi oan này? Liệu ta có thể bỏ không bao giờ diễn lại vở chèo đã khép tội oan cho một danh nhân này nữa hay không? Hay là ta cứ diễn nhưng đổi tên cho nhân vật Thái sư Lê Văn Thịnh? Xin các nhà văn hoá - nghệ thuật hiểu cho nỗi khổ tâm của chúng tôi.

Than ôi! Bàn tay sao che nổi mặt trời!

Mong lắm thay!

L.T.L
(122/04-99)




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.