Hai nhà thơ mở đầu thơ ca hiện đại Thanh Hóa

14:35 14/08/2009
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

Nhà thơ Hữu Loan - Ảnh: vietbao.vn

Có thể nói thơ ca kháng chiến chống Pháp mang một tiếng nói mới cả về nội dung và hình thức. Đây là thời kỳ thơ hiện đại Việt nam có sự cách tân mạnh mẽ trên bình diện hình thức mà trước hết đó là sự chuyển hóa từ nội dung mà cách tân hình thức. Nhà thơ Tố Hữu với 2 tập thơ Từ ấyViệt Bắc khẳng định vị trí mở đầu cho nền thơ ca cách mạng hiện đại Việt Nam. Bên cạnh nhà thơ Tố Hữu, nhóm nhà thơ Thanh Hóa tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp từ những ngày đầu đã đóng góp cho thơ ca kháng chiến những bài thơ mang ý nghĩa cách tân đích thực từ nội dung đến hình thức. Đây là một trong những chùm thơ tiêu biểu cho một giọng điệu thi ca mới. Thi ca cách mạng, chống Pháp và chống Mỹ. Đó là Trần Mai Ninh với "Nhớ Máu" (1946) và Tình Sông Núi (1947), Hữu Loan với Đèo Cả (1946), Màu Tím Hoa Sim (1949), Thôi Hữu với Lên Cấm Sơn (1948), Hồng Nguyên với Nhớ (1948), Hà Khang với Có một Mùa Chiêm (1948), Nghìn ngày kháng chiến gặp mùa lúa chiêm (1949), Minh Hiệu với Mưa Núi (1949). Đây là những tác giả, những tác phẩm tiêu biểu của thơ ca kháng chiến Thanh Hóa. Trần Mai Ninh với Nhớ Máu (1946) và Hữu Loan với Đèo Cả (1946) là hai tác giả có hai bài thơ xuất hiện sớm nhất của thơ ca kháng chiến Thanh Hóa và trở thành những nhà thơ mở đầu văn học hiện đại Thanh Hóa.

Xác định vị trí mở đầu một trào lưu văn học, một dòng văn học không chỉ lấy tiêu chí thời gian tác phẩm xuất hiện mà tiêu chí quan trọng nhất vẫn là phương pháp sáng tác tức là nội dung phản ảnh và cách thức phản ánh đời sống hiện thực của nhà văn. Có thể nói, mục tiêu phản ánh hiện thực là một đặc điểm bao trùm của văn hóa hiện đại Việt Nam thế kỷ XX.


Nhà thơ Trần Mai Ninh - Ảnh: baophuyen.com.vn


Trần Mai Ninh hoạt động cách mạng trong phong trào mặt trận dân chủ (1936 - 1939) của Đảng Cộng sản Việt Nam khi mặt trận dân chủ bị đàn áp, ông trở về Thanh Hóa hoạt động ở chiến khu Ngọc Trạo. Bị địch bắt giam tại nhà tù Thanh Hóa (1942 - 1944). Ông vượt ngục lại bị bắt ở nhà tù Buôn Ma Thuột (1944-1945). Đầu năm 1945 thoát khỏi nhà tù và hoạt động ở Liên khu V, tham gia giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp. Ông bị giặc Pháp bắt và tra tấn dã man. Ông đã anh dũng hy sinh năm 1948.

Trần Mai Ninh viết bài thơ Nhớ Máu vào đêm 9 tháng 11 năm 1946 tại Tuy Hòa. Trong thơ ca cách mạng Việt Nam, Nhớ Máu của Trần Mai Ninh là khúc tráng ca cuồn cuộn hơi thở quyết liệt của một khí thế cách mạng. Đây là tiếng nói hào phóng ngang tàng của một khí phách chiến sĩ được phá củi sổ lồng được gào thét với sát khí quyết tử của người chiến sĩ cách mạng quyết chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc.

Ơi cái gió Tuy Hòa
Cái gió chuyên cần
Và phóng túng
Gió đi ngang, đi dọc
Gió trẻ lại - lưng chừng
Gió nghỉ
Gió cười
Gió reo lên lồng lộng
Tôi đã thấy lòng tôi dậy
Rồi đây
- Còn mấy bước tới Nha Trang
- A, gần lắm
Ta gần máu
Ta gần Người
Ta gần quyết liệt
                        (Nhớ Máu)

Nếu không có cuộc sống chiến đấu quyết liệt sống mái với quân thù, không được chứng kiến khí thế trào dâng của cả dân tộc vụt đứng lên làm cuộc Cách mạng tháng Tám như Nguyễn Đình Thi đã viết trong bài thơ Đất Nước: Nước Việt từ trong Máu lửa - Rũ bùn đứng dậy sáng lòa thì Trần Mai Ninh làm sao có được giọng điệu thơ tự nhiên và mạnh mẽ, nhịp thơ dồn dập lúc căng lúc chùng, mạch thơ ngừng, chảy đột ngột, khí thơ hừng hực hơi thở cuộc sống:

Cả mắt
Cả Người
Cả hồn ta sát tới
Biết bao Người
Sống lẩn lút nhưng ngang tàng
Bên lưng giặc
...
Cờ đã nâng cao
Mầu đỏ máu
Với sao vàng tung rực rỡ
...
Máu chan hòa trên góc cạnh Kim Cương
Các anh hùng tay hạ súng trường
Rồi khẽ vuốt mồ hôi và máu
Họ cười vang rung lớp lớp tinh cầu.
                        (Nhớ Máu)

Nhà thơ Hữu Loan tham gia cách mạng trước tháng 8-1945 trong phong trào mặt trận bình dân. Tham gia Việt Minh ở thành phố Thanh Hóa năm 1943, ông về Nga Sơn gây dựng phong trào Việt Minh là Phó Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa Nga Sơn. Cuối năm 1945 được cử làm ủy viên văn hóa trong ủy ban lâm thời tỉnh Thanh Hóa kháng chiến chống Pháp, ông vào quân đội, làm trưởng ban tuyên huấn quân khu IV. Phụ trách báo chiến sĩ. Bài thơ Đèo Cả được Hữu Loan viết khi ông đang trực tiếp phụ trách báo chiến sĩ ở Huế. Trong một chuyến đi làm báo Hữu Loan đi từ Huế vào Đèo Cả. Hiện lên trước mắt ông thiên nhiên hùng vĩ, non nước điệp trùng, con đường hun hút gian lao không làm nản lòng người chiến sĩ và chính Đèo Cả là biểu tượng của ý chí sắt đá, tinh thần lạc quan của người chiến sĩ cách mạng:

Đèo Cả! Đèo Cả
Núi cao ngút
Mây trời Ai lao
Sầu đại dương
Dặm về hun hút
Bia đá mù sương

Ở ngay những dòng thơ mô tả thiên nhiên, ta đã gặp hơi thở của Tráng Ca. Nhà thơ Anh Chi khi đi tìm hành trình thơ Hữu Loan đã khẳng định:
"Lúc viết Đèo Cả, Hữu Loan chưa biết bài thơ đầu tay của ông là bài thơ đầu tiên của một thời kỳ thi ca mới. Thơ ca thời kỳ trước đó có nhiều tài năng lớn với những sáng tạo đáng tự hào cho nền thơ ca nước Việt Nam mà lịch sử văn hóa gọi là thơ mới nhưng cảm hứng chủ đạo của nó là buồn, hoặc bi phẫn hoặc bất đắc chí. Đèo Cả là thứ thơ khác hẳn". (Hành trình thơ Hữu Loan - Tạp chí Nhà văn số 9-2003).

Cũng như Trần Mai Ninh trong Nhớ Máu giọng điệu thơ Hữu Loan trong Đèo Cả là giọng điệu rắn chắc, dồn nén, mạnh mẽ, giàu phong vị sử thi mà rất hiện thực:

Sau mỗi lần thắng
Những người trấn Đèo Cả
Về bên suối đánh cờ
Người hái rau rừng
Ăn nheo mắt
Người vá áo
Thiếu kim mài sắt
Người đập mảnh chai
Vênh cằm cạo râu
Suối mang bóng người
Soi những về đâu ?
                        (Đèo Cả)

Chính cuộc sống hiện thực và tài năng sáng tạo đã giúp các nhà thơ kháng chiến Thanh Hóa viết được những bài thơ, câu thơ gây ấn tượng mạnh mẽ, giàu chi tiết chân thực không nặng về ước lệ hoặc thi vị hóa cuộc sống mà tươi non hơi thở đời sống.

Những câu thơ leo tháng trong Đèo Cả của Hữu Loan không mới so với thi ca thế giới song đặc biệt mới mẻ và đắc địa trong hình thức thể hiện của thơ ca hiện đại Việt Nam. Bởi lẽ kiểu ngắt câu tạo bậc thang vừa tạo ra nhịp thở chắc khỏe vừa tạo nên một giọng điệu tự nhiên vừa tạo ra xúc cảm dồn nén cho câu thơ. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và tự sự dung dị và mới mẻ, dân tộc và hiện đại, sử thi và anh hùng ca là những đặc điểm mang tính thi pháp của thi ca kháng chiến và những đặc điểm thi pháp ấy càng được phát huy trong thơ ca chống Mỹ. Sự ảnh hưởng của Trần Mai Ninh và Hữu Loan không chỉ đối với các tác giả thơ Thanh Hóa trong kháng chiến chống Pháp mà còn ảnh hưởng đến sự hình thành các giọng điệu thơ Thanh Hóa thời chống Mỹ và sau này. Một dấu hiệu hình thức mang tính phổ biến ở các tác giả thơ Thanh Hóa hiện đại là giọng điệu thơ tự do không vần thường được các tác giả thơ Thanh Hóa vận dụng thể hiện trong quá trình tìm tòi sáng tạo để đổi mới thơ (Chúng tôi xin được trình bày kỹ sự ảnh hưởng này của các tác giả thơ kháng chiến Thanh Hóa ở một chuyên luận khác).

Khẳng định vị trí mở đầu thơ ca hiện đại Thanh Hóa của hai tác giả thơ Trần Mai Ninh và Hữu Loan với hai bài thơ tiêu biểu là Nhớ MáuĐèo Cả, chúng tôi không chỉ tôn vinh những giá trị truyền thống của thơ ca mà chúng tôi còn muốn tìm đến một giả định rằng trong quá trình đổi mới thơ, để có được những cách tân hình thức, phải bắt đầu từ nội dung và giọng điệu thơ, ngôn ngữ thơ chỉ thực sự mới khi nó được khơi nguồn từ hiện thực cuộc sống...

Tháng 4 năm 2004
M.L
(184/06-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.

  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.