Nhà thơ Hải Bằng - Ảnh: tienphong.vn
Nhà thơ Hải Bằng về cõi vĩnh hằng đã hai năm rồi mà bên tai tôi vẫn còn văng vẳng tiếng anh đang còn hưng phấn, đọc thơ, kể chuyện tiếu lâm ở đâu đó. Nhiều nhà thơ nhà văn Huế bảo rằng, Hải Bằng mất, làng văn Huế trống đi một khoảng lòng khó bù đắp. Vì ở đâu có Hải Bằng là ở đó có đọc thơ, tặng thơ, có cười vui, hờn giận, có mắng mỏ để rồi ôm nhau khóc. Có người nhận xét Hải Bằng đậm chất “mệ” (theo cách gọi những người trong Hoàng tộc cũ, vì nhà thơ Hải Bằng là chắt nội của vua Hiệp Hòa). Riêng tôi cứ nghĩ anh mãi mãi là tâm hồn trẻ nhỏ, bộc trực và nhạy cảm. Cười đấy khóc đấy, nhưng công việc thì đam mê, miệt mài, làm đến khô người vẫn không chịu buông bút. Đúng hơn phải gọi Hải Bằng là một thi sĩ lính. Chất lính trong anh đậm đặc, phát lộ từng ngày cả trong thơ và trong cuộc sống. Lúc sinh thời ai nói cái gì sai lập tức bị Hải Bằng mắng, bất kể đó là ai. Một lần đi dự lễ cải táng hài cốt một nữ sĩ nổi tiếng từ Hà Nội về Huế, thấy ông phó chủ tịch mặc áo cộc tay sắp bước lên dâng hương, Hải Bằng đứng sau kéo ông lại, nghiêm mặt nhắc: “Người Huế đi dự tang lễ không ai mặc áo cộc tay cả, ông về thay áo đi rồi lên thắp nhang”. Một lần khác trong dịp chúc Tết văn nghệ sĩ, do ghét chất giao đãi của một vị quan tham khi ông này đến bưng ly rượu đến chúc Tết mình, Hải Bằng đọc ngay hai câu thơ: “Em ơi chớ rót rượu nồng/ Cái say cứ để tự lòng say lên!”. Chất lính trong Hải Bằng đậm đặc đến độ, anh coi mọi người đều thân thiết như trong đơn vị thời kháng chiến, nên ông thấy cái gì thích thì “tao hí” một cách hồn nhiên. Cuộc đời anh kiếm ăn từng bữa nuôi con vô cùng vất vả, nhưng thơ, tạo hình rễ cây thì anh giàu có vô cùng, ban tặng bạn bè thoải mái hàng ngày! Chất thi sĩ lính Hải Bằng bộc lộ từ năm 1945, khi anh 15 tuổi, bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý của gia đình quan lại hoàng tộc để xin gia nhập Vệ Quốc Đoàn. Chỉ có tấm lòng cách mạng, lãng mạn cách mạng quyết liệt, mới từ giã cuộc sống riêng để cất bước lên đường dấn thân như vậy! Chính cái chất thi - sĩ - lính ấy đã làm cho anh một đời lao đao, khốn khổ. Nhưng cũng chính cái chất lính ấy tạc nên chân dung thơ Hải Bằng bộc trực, nhạy cảm, nhân từ và quyết liệt. Hải Bằng là nhà thơ cách mạng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ngày mới vào Việt Minh anh được phiên vào Trung đoàn 101 nổi tiếng vùng Trị Thiên, hành quân qua khắp các chiến khu Dương Hòa, Hòa Mỹ, Ba Lòng, Cam Lộ, Do Linh... Rồi anh sang chiến đấu tại mặt trận Lào, về Thanh Hóa… Trong lai cảo thơ của anh để lại còn có những trường ca chưa in như “Đoàn quân 325”, “Bài thơ rừng hoa Chăm pa”, “Lòng em theo tiếng khèn”. Lúc sinh thời, mỗi lần nhắc đến thời trai trẻ anh lại giở những trang bản thảo thơ đã nhòe mưa rừng và năm tháng, rưng rưng đọc cho tôi nghe. Rồi anh khóc giàn dụa nước mắt như một đứa trẻ. Thời chống Mỹ, anh gắn bó với vùng đất lửa Quảng Bình, Vĩnh Linh. Bài thơ “Cồn Cỏ” là một trong những bài thơ hoành tráng nhất, xúc động nhất viết về đảo Cồn Cỏ anh hùng trong những ngày bão lửa. Năm 1965, bài thơ được giải thưởng báo Văn nghệ do nhà thơ Xuân Diệu làm chánh chủ khảo. Bài thơ được các chiến sĩ đảo trang trọng khắc treo lên phòng truyền thống cho đến tận hôm nay. Ở Huế sau ngày giải phóng tôi đã nghe anh đọc bài thơ “Cồn Cỏ” ở các buổi sinh hoạt thơ đến hàng trăm lần, mà lần nào cũng sục sôi, quyết liệt. Cả khi anh bị bệnh ung thư vòm họng vừa được chạy chữa, có đêm thơ khán giả yêu cầu, anh gầy như que củi, vẫn đứng lên đọc cả trăm câu thơ hùng hồn, sang sảng. Bài thơ đọc xong được cả hội trường vỗ tay rào rào tán thưởng nhiều lần, còn anh thì phải cấp tốc lên phòng cấp cứu bệnh viện. Tôi bảo anh: “Lần sau anh cứ đọc nho nhỏ, người ta đủ nghe là được, đọc to thế hại lắm”. Anh trừng mắt mắng tôi: “Cậu nhà thơ mà chẳng hiểu gì cả! Thơ nó buộc phải đọc như thế, không thể khác được. Thà chết vẫn phải đọc to như tiếng súng!” Đó là chất lính ròng Hải Bằng. Chất thi sĩ ròng Hải Bằng... Đảo nhìn lên trời rộng / Đá quật máy bay nhào / Đảo nhìn xuống biển sâu /Đá dìm tàu giặc Mỹ... ... Đảo Cỏ xanh đảo Cỏ Cồn gang dựng cồn gang.. ... Súng ngửng lên đầu gió Đảo anh hùng - Việt Nam Năm 1950, vừa tròn 20 tuổi, trong đợt theo bộ đội đi chiến dịch ở vùng Cam Lộ, Do Linh (Quảng Trị), Hải Bằng (lúc đó gọi là Văn Tôn) thấy trong đám xác chết của quân địch, có một nữ y tá người Pháp. Trong túi cô cứu thương còn có bức thư của bà mẹ cô từ Pháp gửi qua, nhắn con gái hãy trở về Pháp với mẹ. Xúc động trước thân phận người con gái bị bọn thực dân đẩy vào cuộc chiến tranh phi nghĩa, nhà thơ đã làm bài thơ dài “Gửi em nữ cứu thương người Pháp”. Bài thơ được chép tay, được học thuộc, lan truyền nhanh chóng trong các đơn vị bộ đội trên chiến trường Bình - Trị - Thiên và gây nên sự xúc động sâu sắc... Chiều nay tiếng súng anh ngừng nổ / Thấy xác em nằm trên đống cỏ khô / Đắp cho em màn trấn thủ / Ngậm ngùi anh đọc những dòng thư / Thư buồn mẹ nhắn em về nước… Bài thơ có tầm tư tưởng quốc tế lớn, có cách nhìn về chiến tranh rất nhân đạo và hiện đại. Thôi em nằm đó anh đi trận / Giết kẻ thù chung cướp nước anh / Đem lại ngày mai hai dân tộc / Một bình minh tươi sáng hơn. Chất thi sĩ lính Hải Bằng trong bài thơ vào thời đó thật trung thực và mới mẻ. Đáng tiếc do cách nhìn thiển cận, cực đoan, ngay hồi đó bài thơ đã bị đưa ra mổ xẻ, phê phán, kiểm thảo tác giả với lý do “thương xót kẻ thù”. Vì thếbài thơ đáng quý ấy đã không được in vào các tập thơ kháng chiến, thế hệ trẻ sau này không được đọc. Ngay những đoạn tôi trích dẫn trên cũng từ trí nhớ của nhà thơ Nhất Lâm, một người lính Quảng Trị thời chống Pháp, đọc cho nghe. Chất thi sĩ lính Hải Bằng còn thể hiện trong một câu chuyện thơ cảm động xảy ra cách đây gần 50 năm. Năm 1952, chiến sĩ văn nghệ Văn Tôn đang ở chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị), thuộc Phòng Chính Trị phân khu Bình Trị Thiên. Hai người bạn thân cùng làm văn nghệ là Văn Tôn và Trần Quốc Tiến (sau này là họa sĩ) được phân công về Trung đoàn 95 theo mùa chiến dịch, tức phải xa chiến khu. Để kỷ niệm thời gian được rừng che chở, hai người hẹn nhau làm mỗi người một bài thơ, bỏ vào cái hũ sành nút lại rồi đem chôn xuống rừng Ba Lòng gọi là làm tin. Bây giờ đã 50 năm rồi, không biết thơ trong cái hũ có còn không. Còn câu chuyện cảm động mà Hải Bằng kể gây ấn tượng mạnh đối với tôi. Tháng 7 -1989, ngày lập lại Hội văn nghệ Quảng Trị (sau khi tách tỉnh Bình Trị Thiên), trong đêm sương Thành Cổ Quảng Trị Bải Bằng, Trần Quốc Tiến hai người bạn cùng chôn thơ ở rừng Ba Lòng ôm lấy nhau, nức nở đọc những câu thơ nửa thế kỷ chôn dưới đất. Đêm đó tôi đã không cầm được nước mắt trước cái tình thơ cao cả, lãng mạn đẹp của đời lính. Thơ để in ra, để đọc lên, để chép tặng, chuyện thơ đem chôn để tặng rừng thì Hải Bằng là thi sĩ Việt Nam đầu tiên thực hiện! Bài thơ được anh chép lại kiểu tự xuất bản bằng vi tính để tặng bạn bè, chứ đến bây giờ vẫn chưa in thành sách. Bài thơ dài 100 câu, gọi tên là “Trăm năm rừng cũ”... Chiều hôm nay ta tròn hai mươi tuổi / Xa quê hương lên lãng mạn với rừng / Súng chuyền tay gác tháng năm chờ đợi / Trên đỉnh đèo ta bước giữa không trung. Mới 20 tuổi mà đã nghĩ đến cháu chắt trăm năm sau: Cháu chắt ơi! Cố là Tôn- thi sĩ / Của rừng xanh từ độ ấy trăm năm / Hãy nối đuôi để lo bồi thế hệ / Cho kiếp sau thơ chẳng phai tàn. Chiến khu mang tuổi đời ta đó / Tiếng từ quy chia gió chạnh đêm dài / Tiếng mang nai, tiếng cọp gầm man rợ / Tiếng lá cành- Sương rụng buốt hai vai.. Và khổ kết thật cảm động: Áo bạc năng rồi nhờ ai miếng và Để cho ta yên giấc dưới mồ sâu Thơ ta đây, nếu còn xanh sắc lá Xin núi rừng cho trổ bóng ngày sau Mỗi lần lên thăm mộ anh trên núi Tam Thai - Huế, dưới tán rừng thông vút gió, tôi như nghe tiếng anh đang đọc những câu thơ gửi con cháu, gửi rừng năm mươi năm trước. Haỉ Bằng ơi, chất trẻ thơ, chất thi sĩ lính trong anh còn đọng mãi trong tâm khảm bạn bè và người yêu thơ như bóng rừng đã trổ. Huế, 6- 2000 N. M (137-07-00) |
Những năm đầu sau ngày miền giải phóng, có mấy lần nhà thơ Xuân Diệu vào các tỉnh Nam Trung Bộ và dừng ở Nha Trang ít ngày. Đến đâu Xuân Diệu cũng nói chuyện thơ, được người nghe rất hâm mộ, đặc biệt là giới trẻ.
Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.
1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).
(Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.
Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.
Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)
Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".
Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.
Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).
Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.
Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.
Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...
Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.
LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH
Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.
Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.
Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.
(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp: “Những lo toan năm tháng đời thường Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”
đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...
Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.